Theo Tổ chức Ung thư Toàn cầu, mỗi năm Việt Nam ghi nhận khoảng 180.000 ca mắc mới và hơn 123.000 ca tử vong do ung thư. Ung thư là nguyên nhân tử vong đứng thứ hai tại Việt Nam, chỉ sau các bệnh tim mạch. Gánh nặng bệnh ung thư chiếm 10% tổng số bệnh tật, cao nhất trong khu vực ASEAN. Nhiều trường hợp, bệnh không được phát hiện trong nhiều tháng hoặc nhiều năm, càng phát hiện muộn, tỷ lệ sống càng thấp.
Bác sĩ Trần Đức Cảnh, Phó Trưởng khoa Nội soi và Thăm dò chức năng, Bệnh viện K Trung ương, cho biết một số lý do khiến ung thư khó phát hiện sớm như sau:
Bệnh tiến triển âm thầm
Ung thư là kết quả của quá trình tế bào phân chia không kiểm soát do đột biến gene, làm mất khả năng điều hòa sự sinh sản và chết tế bào. Quá trình phát triển ung thư gồm ba giai đoạn:
- Giai đoạn khởi đầu: Các tác nhân như hóa chất, tia UV, virus... làm tổn thương ADN, tạo ra đột biến gen.
- Giai đoạn thúc đẩy: Tế bào đột biến tăng sinh nhưng chưa hình thành khối u rõ rệt.
- Giai đoạn tiến triển: Tế bào tiếp tục nhân lên, tích lũy đột biến, hình thành khối u ác tính.
Ở giai đoạn đầu, số lượng tế bào đột biến ít, khối u còn nhỏ, chưa xâm lấn hay gây viêm, hoại tử nên thường không có triệu chứng, hệ miễn dịch cũng khó nhận ra.
Tế bào ung thư lẩn tránh hệ miễn dịch
Giai đoạn sớm, các kháng nguyên lạ của tế bào ung thư chưa rõ rệt nên hệ miễn dịch khó nhận diện. Nhiều tế bào ung thư còn tiết ra chất ức chế miễn dịch như:
- PD-L1: Ức chế tế bào lympho T, liên quan ung thư phổi, dạ dày, gan, đại trực tràng, vú, cổ tử cung.
- TGF-β: Ức chế viêm, liên quan ung thư tụy, vú, phổi, tiền liệt tuyến, đại tràng.
Nhờ vậy, hệ miễn dịch không phát hiện và không phản ứng với tế bào ung thư, cơ thể cũng không có biểu hiện sốt, viêm hay suy nhược đặc hiệu.
Triệu chứng không rõ ràng
Khi khối u lớn, gây viêm, hoại tử, chèn ép mô xung quanh mới xuất hiện triệu chứng. Tuy nhiên, ở giai đoạn sớm, khối u còn nhỏ (vài mm), chưa gây tổn thương nên hầu như không có biểu hiện rõ ràng.
Ung thư não nhỏ thường không gây chèn ép, không có triệu chứng thần kinh. Khi u lớn gây đau đầu nhẹ, bệnh nhân uống thuốc giảm đau và chủ quan không đi khám. Còn ung thư dạ dày giai đoạn đầu thường không có triệu chứng, hoặc dễ nhầm với rối loạn tiêu hóa thông thường như đầy bụng, chậm tiêu.
Cơ thể còn khả năng bù trừ các tổn thương nhỏ, nên chức năng vẫn được duy trì. Ví dụ, ung thư gan giai đoạn sớm, phần gan lành vẫn hoạt động tốt, bệnh nhân không có triệu chứng.
Khó phát hiện qua xét nghiệm hay chẩn đoán hình ảnh
Nhiều loại ung thư không có marker sinh học đặc hiệu ở giai đoạn sớm, hoặc nồng độ marker còn thấp, chưa phát hiện qua xét nghiệm máu. Đa số dấu ấn ung thư chỉ tăng khi khối u đã lớn hoặc xâm lấn nhiều.
Marker chỉ điểm ung thư là những chất sinh học (thường là protein) được sản xuất bất thường bởi tế bào ung thư hoặc các tế bào bình thường phản ứng với ung thư, giúp hỗ trợ bác sĩ trong việc sàng lọc, chẩn đoán, theo dõi hiệu quả điều trị, phát hiện tái phát, nhưng không phải là phương tiện duy nhất để xác định bệnh.
Siêu âm khó phát hiện khối u nhỏ dưới 5 mm, đặc biệt với các u sâu như tụy, não. CT hoặc MRI chỉ phát hiện tổn thương 3-5 mm nếu lát cắt đi qua đúng vị trí và bác sĩ có kinh nghiệm cao. Ngoài ra, khối u giai đoạn sớm thường giống mô lành, dễ bị bỏ sót.
Tâm lý chủ quan của người bệnh
Nhiều người thiếu hiểu biết về các dấu hiệu sớm hoặc bỏ qua những bất thường nhỏ của cơ thể, chỉ đi khám khi triệu chứng đã nặng. Không ít người tự tin mình vẫn khỏe nên không chú ý các dấu hiệu ban đầu.
Thúy Quỳnh