Động lực nào để Việt Nam tăng trưởng cao về dài hạn?

Việt Nam cần đạt tốc độ tăng trưởng cao, gia tăng năng suất để trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045, theo chuyên gia.


Nhận định trên được GS.TS Vũ Minh Khương, Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore, nêu tại hội thảo "Kinh tế số và TFP: Nền tảng đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam", ngày 10/7.


Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên năm nay, hai chữ số những năm tới và trở thành nước thu nhập cao vào 2045.


Theo tính toán của GS.TS Vũ Minh Khương, có hai kịch bản để Việt Nam đạt mục tiêu này. Kịch bản 1, GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng 5,5% mỗi năm, tới 2045 thu nhập bình quân đầu người trên GDP chạm 11.000 USD, tương đương Malaysia vào 2021.


Kịch bản 2, GDP bình quân đầu người tăng 6,5% liên tục trong 20 năm thì tới 2045, chỉ số này sẽ chạm 15.000 USD - ngưỡng thấp nhất trong nhóm thu nhập cao. Nếu tốc độ này được duy trì, Việt Nam có thể đạt thu nhập bình quân đầu người khoảng 20.000 USD vào 2050.


Song để đạt mục tiêu, GS.TS Vũ Minh Khương cho rằng Việt Nam cần cải thiện chỉ số năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Đây là một chỉ số quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của nền kinh tế hoặc doanh nghiệp, và thường được sử dụng đo lường sự đóng góp của các yếu tố đầu vào tăng trưởng kinh tế.


"TFP bình quân của Việt Nam thấp hơn những nước thu nhập cao hiện nay", ông nói, cho rằng Việt Nam muốn phải triển thì phải thúc đẩy tăng trưởng "trên quỹ đạo mới".


Cùng quan điểm, GS Tan Swee Liang, Đại học Quản lý Singapore, nói khi các yếu tố vốn và lao động đã được sử dụng một cách triệt để, chỉ có sự gia tăng về năng suất mới có thể thúc đẩy tăng trưởng hơn nữa. Do đó, TFP chính là động lực chủ chốt của tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.


Trong đó, kinh tế số sẽ giúp tăng TFP thông qua cải tiến nghiên cứu và phát triển (R&D), giảm chi phí và nâng cao quản trị. Việc tự động hóa, phân tích dữ liệu lớn, IoT, AI cũng giúp tối ưu quy trình sản xuất, hiệu quả và tạo giá trị gia tăng.


Thực tế, theo Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, Việt Nam đặt mục tiêu đến 2030, TFP sẽ đóng góp trên 55% vào tăng trưởng kinh tế, tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao đạt tối thiểu 50%. Cùng với đó, quy mô kinh tế số tối thiểu 30% GDP, hướng tới 50% vào năm 2045.


Theo báo cáo của nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Quốc gia TP HCM, năng suất nhân tố tổng hợp là nguồn đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng GDP dài hạn. Những quốc gia như Mỹ, Hàn Quốc, Đức đã thành công nhờ "tăng trưởng sâu" dựa trên đổi mới sáng tạo, R&D và công nghệ cao.


Ngược lại, các nước đang phát triển như Ấn Độ, Indonesia, Philippines và Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào vốn, lao động giá rẻ và chuyển dịch cơ cấu. Do đó, TFP tăng trưởng chậm, thiếu ổn định do hạn chế về hạ tầng, thể chế và đổi mới công nghệ, điều khiến các nước dễ rơi vào "bẫy thu nhập trung bình". Riêng tại Việt Nam, TFP chỉ đóng góp khoảng 30-35% vào tăng trưởng GDP giai đoạn 2010-2020, thấp hơn nhiều so với mức trên 50% tại các nước OECD.


"Điều này cho thấy nhu cầu cấp thiết về cải cách thể chế, đầu tư R&D, nâng chất lượng giáo dục và thúc đẩy chuyển đổi số để tăng trưởng bền vững", nhóm nghiên cứu nêu.


Để thúc đẩy TFP, GS.TS Vũ Minh Khương cho rằng nhà điều hành cần thay đổi chiến lược quản lý trong mọi cấp độ, từ trung ương tới địa phương. Cùng với đó, Việt Nam cần chuyển dịch cơ cấu từ lao động, vốn, đất đai, nâng chất lượng nguồn nhân lực, ưu tiên đổi mới sáng tạo, đầu tư mạnh vào công nghệ. Ông cũng đề xuất Việt Nam có quỹ để mua công nghệ từ nước ngoài, nhằm trang bị cho doanh nghiệp vừa nhỏ.


Còn theo TS Nguyễn Quang Vinh, chuyên gia Ngân hàng Thế giới (WB), doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là lực lượng nòng cốt để chuyển dịch từ khu vực năng suất thấp sang năng suất cao. Tuy vậy, theo khảo sát mới đây của WB, tỷ lệ doanh nghiệp Việt đạt trên mức trung bình rất thấp, đa số đổi mới chỉ mang tính nội bộ. Khoảng 80% doanh nghiệp đổi mới chỉ cải tiến quy trình hiện tại, chưa tạo ra giá trị mới cho thị trường. Hơn nữa, đầu tư cho R&D mới chiếm 0,5% GDP, trong khi mục tiêu là 2%.


"Việt Nam cần thúc đẩy lan tỏa công nghệ, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ vào R&D để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình", ông Vinh nói.


Ngoài ra, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đồng bộ, liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước - nhà khoa học - doanh nghiệp; phát triển hạ tầng số, thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục, y tế, tài chính, logistics và quản lý công...


Ở góc độ cơ quan quản lý, ông Phạm Đại Dương, Phó trưởng ban Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, nhấn mạnh TFP đóng vai trò rất quan trọng trong đánh giá năng suất và hiệu quả tăng trưởng. Tuy nhiên, nhà điều hành cần thống nhất cách tính phù hợp để đảm bảo khi hoạch định chính sách, các con số phải phản ánh đúng thực chất.


Theo ông, Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương sẽ tiếp tục lấy ý kiến đóng góp từ các chuyên gia, nhà khoa học, cơ quan trung ương, địa phương và doanh nghiệp để hoàn thiện cách tiếp cận, phương pháp đo lường và cơ chế chính sách trong lĩnh vực năng suất tổng hợp và kinh tế số.


Phương Dung









Dong luc nao de Viet Nam tang truong cao ve dai han?


Viet Nam can dat toc do tang truong cao, gia tang nang suat de tro thanh nuoc thu nhap cao vao nam 2045, theo chuyen gia.

Động lực nào để Việt Nam tăng trưởng cao về dài hạn?

Việt Nam cần đạt tốc độ tăng trưởng cao, gia tăng năng suất để trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045, theo chuyên gia.
Giới thiệu cho bạn bè
  • gplus
  • pinterest

Các bài liên quan

Bình luận

Đăng bình luận

Đánh giá