Ngày 22/3, Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia (NDA) tổ chức đại hội đại biểu lần thứ nhất, đánh dấu sự ra mắt của một hiệp hội chuyên về dữ liệu tại Việt Nam. Nhân dịp này, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương, Giám đốc Trung tâm Dữ liệu Quốc gia, Phó chủ tịch điều hành Hiệp hội, chia sẻ với VnExpress về vai trò của dữ liệu cũng như những việc cần làm để Việt Nam có thể khai thác tốt tài nguyên này.
- Lần đầu Việt Nam có Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia, ông kỳ vọng gì từ sự ra đời của Hiệp hội và tổ chức sẽ đóng vai trò thế nào trong hệ sinh thái dữ liệu Việt Nam?
- Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã xác định vai trò quan trọng của dữ liệu, đặt mục tiêu đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính. Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia muốn tiên phong đóng góp vào quá trình này.
Chúng tôi mong muốn dữ liệu đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội bằng việc xây dựng các kịch bản ứng dụng dữ liệu, sản phẩm, dịch vụ dữ liệu, hình thành thị trường dữ liệu, nền kinh tế dữ liệu, công nghiệp dữ liệu, góp phần thành công vào quá trình xây dựng kỷ nguyên mới thịnh vượng.
Hiệp hội sẽ là cầu nối giữa các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong hệ sinh thái dữ liệu Việt Nam. Để làm được điều đó, chúng tôi sẽ xây dựng mạng lưới thành viên rộng khắp, đi sâu bám chắc vào tất cả lĩnh vực, ngành nghề trong đời sống xã hội cần sử dụng dữ liệu, tạo nên một hệ sinh thái hoàn chỉnh, từ cơ quan nhà nước, tới tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, góp phần hiện thực hóa các kịch bản ứng dụng dữ liệu của hội viên.
- Trong giai đoạn chuyển đổi số, dữ liệu có thể được sinh ra từ bất cứ đâu và phần lớn tổ chức, doanh nghiệp đều cần dữ liệu. Vậy ai có thể trở thành thành viên của Hiệp hội?
- Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia chính thức ra đời theo quyết định ngày 10/1/2025 của Bộ Nội vụ. Đến nay đã có hơn 400 thành viên là tổ chức, cá nhân tham gia. Điều này cho thấy dữ liệu là vấn đề rất được quan tâm và có tiềm năng lớn tại Việt Nam.
Các cá nhân, tổ chức đủ điều kiện đều có thể tham gia Hiệp hội, từ đó tạo ra một mạng lưới liên kết rộng lớn, chung lý tưởng và mục tiêu đưa đất nước tới thịnh vượng thông qua con đường dữ liệu, đồng thời các hội viên có thể nâng cao kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm, thông tin về phát triển dữ liệu và các thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực dữ liệu.
Để trở thành thành viên, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân chỉ cần đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo điều lệ của Hiệp hội. Ví dụ cá nhân có thể là nhà quản lý, nghiên cứu, giảng dạy, kinh doanh dịch vụ và xây dựng phát triển hoạt động trong lĩnh vực dữ liệu hoặc có liên quan đến lĩnh vực dữ liệu. Đối với tổ chức, họ cần hoạt động trong lĩnh vực dữ liệu hoặc có liên quan đến lĩnh vực dữ liệu, đồng thời có điều kiện tham gia hoạt động thường xuyên của Hiệp hội.
- Theo ông, vấn đề lớn nhất về dữ liệu tại Việt Nam hiện nay là gì?
- Việt Nam đã quan tâm đến việc phát triển khai thác và bảo vệ dữ liệu từ hàng chục năm nay. Tuy nhiên lĩnh vực này còn tồn tại nhiều thách thức. Thứ nhất, tôi muốn nhấn mạnh việc thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Đó là các chuyên gia có kỹ năng phân tích dữ liệu, trí tuệ nhân tạo và khai phá dữ liệu. Điều này làm giảm khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại vào thực tế.
Thứ hai, hạ tầng công nghệ chưa đồng bộ. Dù có sự phát triển, nhiều tổ chức, doanh nghiệp chưa đầu tư đủ vào hạ tầng, dẫn đến khó khăn trong xử lý và lưu trữ dữ liệu lớn.
Thứ ba, dữ liệu phân tán và không đồng nhất. Tại các doanh nghiệp, tổ chức, dữ liệu thường được lưu trữ ở nhiều nguồn khác nhau, không có sự chuẩn hóa, điều phối, gây khó khăn trong tích hợp và khai thác.
Thứ tư, thiếu nhận thức và kiến thức về giá trị của dữ liệu. Nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân chưa nhận ra tiềm năng của dữ liệu trong việc đưa ra quyết định chiến lược, dẫn đến không ưu tiên đầu tư xây dựng các kịch bản ứng dụng để khai phá dữ liệu.
Bên cạnh đó, cũng cần nhắc đến điểm nghẽn về thể chế và đột phá đổi mới sáng tạo. Đó là hệ thống pháp luật về dữ liệu chưa hoàn thiện. Trong khi đó, khai phá dữ liệu là lĩnh vực mới, cần đổi mới sáng tạo, nên tạo ra nhiều điểm nghẽn thể chế cần tháo gỡ.
- Với những vấn đề được nhận diện ở trên, nếu phải chọn ra ba việc đầu tiên Hiệp hội sẽ thực hiện, theo ông đó sẽ là gì?
- Đầu tiên, chúng tôi muốn "dữ liệu hóa" nền kinh tế, xã hội, tức đưa dữ liệu vào trong tất cả lĩnh vực trong đời sống xã hội. Để làm được điều này, việc đầu tiên là xây dựng các kịch bản ứng dụng dữ liệu để có cái nhìn tổng thể bước đầu về bức tranh.
Ví dụ trong về kinh tế, toàn bộ hoạt động của nền kinh tế nếu dựa trên dữ liệu sẽ giúp tăng trải nghiệm người dùng, giúp nhà kinh doanh hiểu rõ hơn về thị trường, tối ưu hóa quy trình, cải thiện sản phẩm, dịch vụ và đưa ra quyết định chiến lược. Dữ liệu sẽ tạo ra sự đột biến kinh tế, sự phát triển vượt bậc, và là yếu tố then chốt định hình mô hình kinh tế lấy dữ liệu làm trung tâm, lấy chuyển đổi số làm nền tảng.
Thứ hai, sau khi lên kịch bản, phải làm rất nhanh tới bước hiện thực hóa chúng. Hiệp hội với rất nhiều thành viên là tổ chức, doanh nghiệp, chuyên gia hàng đầu sẽ cùng thúc đẩy để các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở Việt Nam có thể ứng dụng thành công các kịch bản dữ liệu đó. Mục tiêu cuối cùng là dữ liệu phải tạo ra giá trị.
Thứ ba, tiến tới xây dựng một số mô hình kinh doanh dữ liệu. Nghị quyết 57 đặt mục tiêu Việt Nam tiến tới tự chủ hoàn toàn một số công nghệ lõi, công nghệ chiến lược. Trong lĩnh vực dữ liệu, tôi cho rằng cần có những mô hình kinh doanh dữ liệu tạo ra giá trị và mang đậm bản sắc Việt Nam, đồng thời hình thành thị trường dữ liệu với nhiều sản phẩm, dịch vụ độc đáo, tạo ra nền công nghiệp dữ liệu thu hút được đầu tư của nước ngoài.
- Nghị quyết 57 đặt mục tiêu "làm giàu, khai thác tối đa tiềm năng của dữ liệu, đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính". Ông đánh giá Việt Nam đang ở đâu trên lộ trình này?
- Việt Nam vẫn đang trong những bước đi đầu tiên. Cụ thể đang ở giai đoạn tập hợp dữ liệu và có một số kịch bản ứng dụng dữ liệu vào đời sống. Tuy nhiên, việc ứng dụng vẫn chưa có tính tổng thể và khai phá hết tiềm năng của dữ liệu như một tư liệu sản xuất chính.
Thời gian qua, Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia đã đạt nhiều thành tựu, như 98% dữ liệu hộ tịch được số hóa, 99% dữ liệu cán bộ công chức, viên chức được làm sạch với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Từ đó, 324 thủ tục hành chính có thể cắt giảm do thành phần hồ sơ là thông tin đã được tích hợp trên tài khoản VNeID, 200 thủ tục hành chính có thể khai thác dữ liệu hộ tịch, dữ liệu đất đai đã số hóa để cắt giảm thành phần hồ sơ.
Tuy nhiên cũng cần nhìn nhận thực tế ở nhiều nơi, nhiều tổ chức, dữ liệu còn cát cứ, chưa được kết nối, khai phá để tạo ra giá trị to lớn hơn.
Trong khi đó, quá trình chuyển đổi số quốc gia đã thúc đẩy việc tạo lập, tích lũy, khai phá dữ liệu, biến đây trở thành tư liệu sản xuất vượt xa các chuẩn mực trong lịch sử. Trước đây, đất đai là tài nguyên của kỷ nguyên nông nghiệp, quặng sắt là tài nguyên của kỷ nguyên công nghiệp, dầu mỏ là tài nguyên của kỷ nguyên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, còn nay, dữ liệu trở thành tài nguyên, tư liệu sản xuất chính và bất tận trong kỷ nguyên số.
Chúng ta cần tận dụng nguồn tài nguyên này. Dữ liệu kết hợp chặt chẽ với lực lượng sản xuất tạo ra sản phẩm và dịch vụ dữ liệu có giá trị cao hơn. Dữ liệu được cải tiến, lực lượng sản xuất sẽ thay đổi, có trình độ nhận thức cao hơn, bảo đảm yêu cầu làm chủ và tự chủ, làm thay đổi cán cân tỷ lệ lực lượng lao động theo hướng có trình độ cao hơn.
Với giá trị như vậy, cần xác định vai trò trung tâm của dữ liệu trong kỷ nguyên mới. Dữ liệu phục vụ trực tiếp nhiệm vụ quản trị quốc gia, quản trị xã hội, hoạch định chính sách và cải thiện sự minh bạch. Mục đích của phát triển dữ liệu là hướng tới người dân, lấy nhân dân làm trung tâm và phục vụ nhu cầu của nhân dân.
- Nói đến dữ liệu, một trong những vấn đề quan tâm nhất với người dân là an toàn thông tin. Làm thế nào để cân bằng giữa khai thác dữ liệu và bảo vệ quyền riêng tư, trong khi vẫn thúc đẩy đổi mới sáng tạo?
- Đây là một vấn đề tổng quát và để trả lời được sẽ có nhiều thứ cần giải quyết, từ áp dụng quy định pháp lý chặt chẽ, tăng cường minh bạch trong xử lý dữ liệu, ứng dụng công nghệ bảo vệ quyền riêng tư, khuyến khích đổi mới sáng tạo có trách nhiệm, đến phát triển các tiêu chuẩn đạo đức.
Tuy nhiên theo tôi, vấn đề lớn nhất là tư duy, văn hóa và bài toán lợi ích.
Khi các kịch bản ứng dụng dữ liệu được chuẩn hóa, tạo ra các ngành nghề kinh doanh dữ liệu mới, chúng ta sẽ có các sản phẩm, dịch vụ mới dựa trên dữ liệu vừa đảm bảo đúng quy định pháp luật, vừa có giá trị lâu bền. Khi đó, tư duy ngắn hạn, lợi ích trước mắt sẽ dần dần được loại bỏ.
Cộng với quy định của pháp luật nghiêm minh, mỗi người sẽ có trách nhiệm cao hơn với xã hội, với sự phát triển của dân tộc. Lúc đó, tôi tin tình trạng lộ, mất, sử dụng trái phép dữ liệu cá nhân sẽ giảm dần.
- Làm thế nào Việt Nam tận dụng dữ liệu lớn để cải thiện dịch vụ công và hỗ trợ ra quyết định chính sách hiệu quả hơn?
- Đây là những nội dung Nghị quyết 57 cũng nêu rất rõ ràng. Theo tôi có các điểm chính cần thực hiện, đó là:
Thứ nhất, phải có hạ tầng dữ liệu mạnh mẽ. Chúng ta có thể đầu tư vào hệ thống thu thập, lưu trữ và xử lý dữ liệu hiện đại, có khả năng mở rộng; xây dựng thành công Trung tâm dữ liệu quốc gia để tập trung và quản lý dữ liệu hiệu quả hơn.
Thứ hai, dữ liệu phải được tổng hợp, đồng bộ, phân tích, khai phá từ nhiều nguồn, như thu thập từ các cơ quan hành chính, dịch vụ công, hệ thống giao thông, y tế, giáo dục và các ngành khác; kết nối các cơ sở dữ liệu để tạo ra hệ thống liên thông, giúp cải thiện hiệu quả khai thác. Sau đó cần sử dụng các công cụ phân tích dữ liệu tiên tiến để tìm ra các xu hướng, mô hình và dự đoán hữu ích. Ngoài ra, không thể thiếu việc áp dụng trí tuệ nhân tạo và học máy để tối ưu hóa quy trình và hỗ trợ ra quyết định dựa trên dữ liệu.
Thứ ba, dữ liệu cần được đưa vào ứng dụng trong dịch vụ công để tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ dữ liệu mới, có giá trị lâu dài. Điều này cũng tăng cường tính minh bạch và khả năng đáp ứng của các dịch vụ công thông qua dữ liệu thời gian thực, đồng thời tạo ra các ứng dụng hoặc nền tảng, sản phẩm, dịch vụ dữ liệu giúp người dân, doanh nghiệp dễ dàng truy cập thông tin và sử dụng dịch vụ công.
Thứ tư, cần xây dựng mô hình ngôn ngữ lớn và trung tâm tính toán hiệu năng cao để hỗ trợ ra quyết định chính sách. Việc cung cấp thông tin dựa trên dữ liệu sẽ giúp các nhà lãnh đạo đưa ra quyết định phù hợp hơn, dựa trên bằng chứng khoa học; dự đoán xu hướng kinh tế, xã hội và môi trường để hoạch định chính sách lâu dài.
Thứ năm, coi bảo mật và quyền riêng tư là ưu tiên hàng đầu. Để làm được điều đó, cần đề ra các chính sách rõ ràng về bảo vệ dữ liệu cá nhân, bảo đảm an ninh dữ liệu trong quá trình khai thác dữ liệu lớn, đồng thời sử dụng công nghệ bảo mật hiện đại để giảm thiểu rủi ro.
Thứ sáu, cần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng. Việt Nam cần đào tạo chuyên gia về dữ liệu để đảm bảo khả năng thực hiện và vận hành hệ thống.
Tôi tin nếu làm được những điều trên, Việt Nam sẽ có một nền tảng vững chắc về dữ liệu, từ đó không chỉ cải thiện dịch vụ công, hỗ trợ ra quyết sách, mà còn có nền kinh tế - xã hội phát triển vượt bậc, đưa dữ liệu "thành không khí và ánh sáng cho kỷ nguyên mới" như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói.
Lưu Quý