Ở TP HCM hay một số tỉnh miền Đông Nam Bộ ngày nay, tên của "thi tướng" Huỳnh Văn Nghệ được đặt cho nhiều con đường, như sự ghi nhận người chiến sĩ có công trong cuộc kháng chiến chống thực dân và mang tâm hồn của một thi nhân.
Nhà thơ sinh năm 1914, trong một gia đình nghèo tại làng Tân Tịch, xã Mỹ Lộc, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Thường Tân, TP HCM), nơi ông gọi là "quê hương rừng thẳm sông dài". Thuở nhỏ, ông thường được nghe mẹ kể những câu chuyện về nghĩa quân chống Pháp ở quê nhà. Ngày lên Sài Gòn học ở trường Pétrus Ký, cậu bé Huỳnh Văn Nghệ đã biết "băn khoăn đi tìm lẽ yêu đời", sớm có ý thức tìm đến những người cộng sản và tiếp thu tư tưởng làm cách mạng.
Năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Ba năm sau, ông tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ. Cuộc khởi nghĩa thất bại, một số chiến sĩ phải rút về rừng Tân Uyên hoạt động, nhà thơ được giao nhiệm vụ tiếp tế đạn dược, thuốc men cho họ. Năm 1942, khi bị thực dân, tay sai phát hiện, ông phải trốn sang Thái Lan, hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước. Tại đây, nhà thơ tổ chức xuất bản tờ báo Hồn cố hương, kêu gọi kiều bào hướng về Tổ quốc.
Khi Nam Bộ kháng chiến, Huỳnh Văn Nghệ cùng một số người tập hợp lực lượng, lập nên chiến khu Đ nổi tiếng miền Đông Nam Bộ. Từ nơi này, ông được mệnh danh là ''thi tướng rừng xanh'', còn trong chiến đấu là ''con hùm xám miền Đông''.
Huỳnh Văn Nghệ sáng tác từ trước năm 1945. Dù ý tứ còn non, câu từ chưa thật trau chuốt, ông tái hiện sinh động những cảnh đời khốn khổ trong xã hội khi ấy. Nhà thơ khơi gợi xúc cảm mạnh mẽ trước những mảnh đời lầm than, như ở bài Đám ma nghèo: ''Đám ma ai giữa mưa dầm gió lạnh/ Bốn người khiêng lắt lẻo chiếc quan tài/ Người vợ kêu trời khan cả giọng/ Ẵm con thơ lần bước dưới mưa rơi''.
Thơ Huỳnh Văn Nghệ giai đoạn này thường hướng về những tình cảm đời thường. Ông nhắc nhiều đến hình ảnh người mẹ, qua các bài Mộ bia (1936), Trốn học (1939). Xen lẫn các tác phẩm giàu tình cảm là bóng dáng của một người trai giàu chí khí. Con sông Đồng Nai chảy qua thơ Huỳnh Văn Nghệ không mang vẻ yêu kiều như sông Hương, không hiền hòa êm ả giống sông Tiền, sông Hậu mà là con sông "xông pha vượt núi băng ngàn" để "sống thác tìm trời tự do".
Năm tháng kháng chiến, thơ ca Huỳnh Văn Nghệ được ví như tiếng hát giữa rừng, hào sảng, mang khí chất rắn rỏi của người chiến sĩ. Trong cuốn Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế kỷ XX (1900-1954), thơ Huỳnh Văn Nghệ được nhận định ''phản ánh chân thực cuộc kháng chiến ở chiến khu miền Đông trong những năm khó khăn và ác liệt''. Ở sách Địa chí Đồng Nai, các tác giả viết: "Dáng dấp của Huỳnh Văn Nghệ thật không khác gì mấy so với những sĩ phu yêu nước của Nam Bộ thế kỷ trước, chỉ có điều, đấy là nhà thơ - chiến sĩ của một trào lưu lịch sử hoàn toàn mới mẻ. Bởi vậy, con người và cuộc sống kháng chiến trong thơ văn Huỳnh Văn Nghệ đậm tính chân thực, nhưng không kém phần hào hùng, giàu tráng khí".
Cuộc sống thời chiến ở miền Đông Nam Bộ "gian lao mà anh dũng" được nhà thơ miêu tả khá tỉ mỉ. Ông khắc họa hình ảnh người chiến sĩ bị cưa chân nhưng biết vượt lên cơn đau bằng bài hát Tiến quân ca, ở tác phẩm Tiếng hát giữa rừng (1946), hay trung tướng Nguyễn Bình với chuyến đi từ biệt chiến khu Đ để trở về Đồng Tháp năm 1946 trong Rừng nhớ người đi...(1947). Nhiều sự kiện một thời làm lay động đời sống chiến khu được ông nhắc lại như quân ta chiếm lại miếu Bà Cô (Mất Tân Uyên, 1949), họp bình công ở đại đội (Hội nghị bình công, 1954).
* Một số tác phẩm của Huỳnh Văn Nghệ
Tác phẩm Nhớ Bắc được xem là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Huỳnh Văn Nghệ. Bài thơ tái hiện lịch sử những ngày cha ông ta cầm gươm đi mở nước, cho thấy nỗi niềm của người dân miền Nam hướng đến miền Bắc. Tác phẩm mở đầu cho dòng thơ về khát vọng thống nhất non sông từ những ngày đầu chống Pháp năm 1946 đến ngày chiến thắng quân Mỹ năm 1975.
Ở những câu: ''Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ/ Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn/ Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ/ Mỗi lần phảng phất hương sầu riêng'', Huỳnh Văn Nghệ chọn hai nét văn hóa tinh thần: quan họ và vọng cổ cũng như sản vật vải đỏ và sầu riêng, tiêu biểu cho hai miền. Các hình ảnh ngụ ý dù ở nơi đâu, tình yêu quê hương vẫn hòa quyện, không phân biệt.
Nhớ Bắc được viết theo thể hiện đại nhưng mang nét cổ kính, gợi cho người đọc nhớ đến thơ Đường với các ý: đề, thực, luận, kết. Trong sự nghiệp, Huỳnh Văn Nghệ có nhiều bài mang phong vị thơ Đường qua cách dùng từ cổ, như ở Xuân chiến khu (1945), Bức thư thành (1947). Đó là khí chất của con người nguyện sống chết với sứ mệnh của mình, không phải những cảm xúc bi lụy trước đau thương, mất mát của chiến cuộc.
Một sáng tác khác của Huỳnh Văn Nghệ được nhiều người nhắc đến là Bên bờ sông xanh. Bài thơ tái hiện hình ảnh của chiến sĩ - thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ và cũng là lời tuyên ngôn của ông về sứ mệnh của mình: ''Tôi cũng biết nhớ thương, tơ tưởng/ Nào chỉ là võ tướng hay thi nhân/ Tôi là người lăn lóc trên đường trần/ Không phân biệt lúc mài gươm, múa bút''.
Sau năm 1954, Huỳnh Văn Nghệ tập kết ra Bắc. Thời gian này, ông tiếp tục sáng tác nhưng không nhiều, với một số bài thơ Cái chết của anh Xiểng, Chiến khu Đ chống bão, Hình ảnh Bác Hồ trong lòng Nam Bộ, và các truyện ngắn mang tính chất bút ký như Trận mãng xà, Sấu đỏ mũi, Chùa ông mõ, Mất đồn Mỹ Lộc, Tiếng hát trên sông Đồng Nai.
Huỳnh Văn Nghệ còn hoàn thành hai tập hồi ký, trong đó Quê hương rừng thẳm sông dài viết về thời thơ ấu của ông ở Tân Uyên, quãng thời gian lên Sài Gòn học, bước đầu có cảm tình với cách mạng. Hồi ký Những ngày sóng gió kể giai đoạn ông bị lộ hoạt động, phải trốn sang Thái Lan, sau đó bị bắt nhưng thoát được, về quê tìm lại chi bộ cách mạng.
Nhà thơ Huy Cận từng nhận xét về con người, đất nước Việt Nam: "Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa", thể hiện truyền thống đẹp của dân tộc. Huỳnh Văn Nghệ là sự nối tiếp của những chiến sĩ - thi sĩ ở thế hệ trước, khi loạt chiến công đánh giặc và các bài thơ của ông luôn song hành.
Hà Thanh Vân