80 năm qua, sự phát triển của giáo dục Việt Nam được chia thành 5 giai đoạn.
Giai đoạn 1945-1954: Xây dựng nền tảng tư tưởng mới, xóa nạn mù chữ, duy trì và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân, đào tạo thế hệ “công dân kháng chiến”…
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong muôn vàn khó khăn: "thù trong giặc ngoài", kinh tế kiệt quệ, hơn 90% dân số mù chữ.
Chính phủ coi xóa mù chữ, chấn hưng giáo dục là nhiệm vụ cấp bách. Ở vùng tự do, phong trào Bình dân học vụ, Bổ túc văn hóa lan rộng, trường lớp được mở rộng, đại học khôi phục và giảng dạy bằng tiếng Việt.
Ở vùng tạm chiếm, giáo dục là một mặt trận đấu tranh tư tưởng, phong trào giáo dục yêu nước phát triển mạnh mẽ. Các lớp Bình dân học vụ xóa mù chữ được duy trì bí mật bất chấp chính quyền Pháp thiết lập một nền giáo dục hạn hẹp, mục đích nô dịch, chống cách mạng, đầu độc thanh niên, trường học bị biến thành nơi theo dõi, dụ dỗ và bắt lính, đàn áp các giáo viên và học sinh yêu nước.
Giai đoạn 1954-1975: Miền Bắc cơ bản xóa nạn mù chữ, xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh. Miền Nam phát triển giáo dục cách mạng linh hoạt, bền bỉ, mạng lưới trường lớp dân chủ.
Sau 1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc với hai thể chế và con đường phát triển đối lập, tác động sâu sắc đến giáo dục. Dù có sự khác biệt về bản chất, mục tiêu của giáo dục hai miền đạt được những thành tựu nhất định.
Miền Bắc tập trung xóa nạn mù chữ với chiến dịch lần thứ ba được phát động rộng rãi. Cải cách giáo dục 1956 thiết lập hệ thống phổ thông 10 năm, biên soạn chương trình - sách giáo khoa mới, đồng thời đào tạo đội ngũ giáo viên bài bản.
Học sinh tiểu học Hà Nội. Ảnh: Phạm Hải
Từ năm 1958, giáo dục trở thành bộ phận trọng yếu của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, chương trình học được củng cố, chú trọng thực hành và lao động sản xuất. Trường đại học phát triển nhanh, từ 5 trường (1959-1960) lên 17 trường (1964-1965). Giai đoạn 1965-1975, khi Mỹ đánh phá miền Bắc, ngành Giáo dục chuyển sang điều kiện thời chiến.
Miền Nam duy trì song song hai hệ thống là giáo dục dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa và giáo dục trong vùng giải phóng. Từ 1954-1960, các lớp bình dân học vụ hoạt động dưới “vỏ bọc hợp pháp” trong điều kiện khó khăn. Từ năm 1961, một hệ thống giáo dục cách mạng được thiết lập, có chương trình và sách giáo khoa riêng, trường lớp phát triển mạnh. Giai đoạn từ 1969-1975, giáo dục chuyển hướng linh hoạt, mở lớp hợp pháp và bán hợp pháp ở vùng ven, đặc biệt sau Hiệp định Paris.
Giai đoạn 1975-1986, thống nhất hệ thống giáo dục quốc dân, giữ vững và mở rộng quy mô, xóa mù chữ, nâng cao dân trí, xây dựng đường lối, chính sách giáo dục toàn diện.
3 năm đầu sau 1975 giáo dục tập trung vào các nhiệm vụ cấp bách hậu chiến như tiếp quản, ổn định và thống nhất hệ thống trên phạm vi cả nước. Những năm 1979-1986, triển khai cuộc cải cách giáo dục toàn diện lần thứ ba trong bối cảnh đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh đó, tháng 6/1975, Ban Bí thư ban hành 2 chỉ thị về giáo dục miền Nam, làm kim chỉ nam cho việc tiếp quản, xóa mù chữ, bổ túc văn hóa, phát triển trường lớp và thống nhất quản lý.
Đại hội Đảng năm 1976 cũng xác lập nền tảng tư tưởng cho sự phát triển giáo dục: “Giáo dục là nền tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc”.
Nghị quyết 14 của Trung ương tháng 1/1979 là văn kiện pháp lý quan trọng chính thức khởi động cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba. Tuy nhiên, trước bối cảnh khủng hoảng kinh tế - xã hội, Đại hội Đảng năm 1982 thẳng thắn thừa nhận “vấn đề lớn nhất hiện nay là chất lượng giáo dục giảm sút nghiêm trọng”.
Những năm 1975-1978, ngành giáo dục nhanh chóng tiếp quản và đưa vào hoạt động ổn định gần như toàn bộ hệ thống trường lớp ở miền Nam. Cuối năm 1978, các tỉnh thành phía Nam căn bản hoàn thành xóa mù chữ, các trường tư thục bị giải thể, nhiều trường đại học công lập được sáp nhập, hình thành hệ thống đào tạo sau đại học - phó tiến sĩ.
Trong bối cảnh khủng hoảng 1979-1986, giáo dục thống nhất thành công hệ thống phổ thông 12 năm trên cả nước. Lần đầu tiên, một bộ chương trình và sách giáo khoa duy nhất được biên soạn và áp dụng. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đã tác động trực tiếp và nặng nề đến giáo dục. Cơ sở vật chất xuống cấp, ngân sách cho giáo dục chỉ chiếm 3,5-3,7% tổng chi, chủ yếu để chi lương. Có thời điểm 40% phòng học trên cả nước là phòng học tạm bằng tranh tre, nứa lá. Đời sống giáo viên khó khăn, chất lượng giáo dục suy giảm, quy mô học sinh biến động.
Giai đoạn 1986-2000, giáo dục là quốc sách hàng đầu, khung pháp lý, thể chế từng bước hoàn thiện, xã hội hóa, đa dạng hóa loại hình.
Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) chỉ ra những yếu kém và đặt yêu cầu đổi mới tư duy, coi giáo dục là một bộ phận không thể tách rời của sự nghiệp đổi mới chung.
Nghị quyết Trung ương 6 (1989) chủ trương đa dạng hóa đào tạo, mở rộng trường ngoài công lập và chuyển cơ chế tài chính từ bao cấp sang huy động nhiều nguồn, có thu học phí.
Học sinh Hà Nội trong ngày khai trường. Ảnh: Hoàng Hà
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991), giáo dục và đào tạo được coi là “quốc sách hàng đầu” với nhiệm vụ “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển…
Chủ trương của Đảng đã được thể chế hóa thông qua các luật, ví dụ như Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (1991), đặc biệt là Luật Giáo dục (1998).
Giai đoạn 2000-2025, nhất quán chính sách giáo dục là quốc sách hàng đầu, ngân sách cho giáo dục chiếm 20% tổng chi, chuyển đổi số, hội nhập quốc tế.
Nghị quyết số 29 của Trung ương năm 2013 khẳng định tầm quan trọng giáo dục, ưu tiên chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đạt tối thiểu 20% tổng chi.
Trong 10 năm đầu thế kỷ 21, giáo dục tập trung củng cố nền tảng và phổ cập. Đến năm 2000, Việt Nam đã hoàn thành phổ cập tiểu học và xóa mù chữ. Tháng 6/2010, 63 tỉnh, thành phố đều đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Triển khai chương trình và sách giáo khoa phổ thông mới từ năm 2002.
Luật Giáo dục 2005 bãi bỏ mô hình bán công, thay thế bằng dân lập, tư thục, tạo khung pháp lý cho xã hội hóa giáo dục. Giáo dục nghề nghiệp được chú trọng với Luật Dạy nghề 2006. Luật Giáo dục 2005 lần đầu đưa khái niệm “kiểm định chất lượng”.
Cũng trong giai đoạn này, giáo dục đào tạo bước vào giai đoạn đổi mới căn bản và toàn diện. Đại hội XI của Đảng (2011) xác định Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu, Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 (QĐ 711, 2012), Luật Giáo dục đại học 2012 và đặc biệt Nghị quyết 29-NQ/TW (2013) đã tạo hành lang pháp lý cho đổi mới toàn diện.
Đại dịch Covid-19 (2020-2021) thúc đẩy dạy học trực tuyến với phương châm “tạm dừng đến trường, không dừng học”. Từ sau dịch, chuyển đổi số trở thành định hướng chiến lược của ngành.

Thống nhất dạy 2 buổi/ngày miễn phí từ năm học 2025-2026
Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu các bộ, ngành, địa phương chuẩn bị đầy đủ điều kiện để dạy 2 buổi/ngày miễn phí ở bậc tiểu học, THCS, đồng thời hỗ trợ bữa ăn trưa cho học sinh những cấp này ở các xã biên giới. Thời gian thực hiện từ năm học 2025-2026.
Điều đặc biệt trong lễ khai giảng trên cả nước năm 2025
Lễ khai giảng năm nay trên cả nước sẽ được tổ chức không giống những năm trước. Các trường đại học cũng sẽ tổ chức khai giảng cùng thời gian này.