Biến cố khiến cuộc đua của Red Bull trên đường đua Catalunya, Barcelona xoay chiều đến ở vòng 55, khi chiếc W16 của tân binh Kimi Antonelli (Mercedes) hỏng động cơ và bỏ cuộc, khiến xe an toàn xuất hiện. Lúc này, các tay đua đều tranh thủ về pit thay lốp. Verstappen cũng phải về pit để tránh bị thất thế về lốp. Nhưng việc chỉ còn lốp cứng khiến tay đua người Hà Lan cáu gắt với đội nhà, vì anh đã lường trước sự thua thiệt về lốp ở giai đoạn cuối cuộc đua.
Đúng như dự tính của Verstappen, ngay khi xe an toàn rời đi và cuộc đua bắt đầu trở lại ở vòng 60, tay đua Ferrari Charles Leclerc nhanh chóng tận dụng lợi thế của bộ lốp mềm để tăng tốc, vượt qua chiếc RB21 của Red Bull đang thiếu độ bám để chiếm vị trí thứ ba ngay trước khi tới Turn 1. Khi đối đầu, hai xe này đã va chạm nhẹ, nhưng cả hai đều thoát án phạt, dù đã bị các trọng tài để ý.
Ngay sau đó, đến lượt George Russell (Mercedes) tấn công Verstappen. Chiếc W16 lách vào bên trong chiếc RB21 tại Turn 1. Hai xe va chạm nhẹ và Verstappen phải chạy tắt qua bãi trống ven đường và giữ được vị trí thứ 4. Tay đua người Hà Lan cáo buộc Russell ép chiếc RB21 ra ngoài đường đua. Nhưng kỹ sư đường đua của Verstappen, Gianpiero Lambiase khuyên "gà" nhà trả lại vị trí thứ 4 cho Russell để tránh án phạt "thu lợi bất chính do chạy tắt tại góc cua".
Tới vòng 64, khi cuộc đua chỉ còn hai vòng, Verstappen có động thái di chuyển vào bên trong và nhường chỗ cho Russell vượt ở bên ngoài khi hai xe đến Turn 5. Nhưng khi Russell bắt đầu vượt, Verstappen đột nhiên di chuyển vào làn trong, khiến hai xe va chạm. Hai tay đua vốn có nhiều hiếm khích, nên pha xử lý thiếu kiềm chế của Verstappen khiến Russell phát cáu, to tiếng chửi thề trên sóng radio.
Va chạm này khiến các trọng tài lưu ý, và sau khi cuộc đua kết thúc, Verstappen bị cộng thêm 10 giây vào thành tích do "Đột ngột tăng tốc và gây ra va chạm". Bên cạnh đó, tay đua Hà Lan bị thêm ba điểm phạt vào hồ sơ. Thêm một điểm phạt nữa, Verstappen sẽ bị cấm thi đấu một chặng. Tụt xuống vị trí thứ 10 sau án phạt, tay đua Hà Lan chỉ giành được một điểm tại Catalunya và bị Oscar Piastri cùng Lando Norris (McLaren) bỏ xa trên bảng điểm cá nhân.
Verstappen khởi đầu chặng đua khá ấn tượng dù chỉ xuất phát thứ ba. Ngay từ những giây đầu tiên, tận dụng sự chậm trễ của Norris cùng đoạn thẳng dài sau vạch xuất phát, Verstappen nhanh chóng vượt lên thứ hai trước khi đoàn đua tới Turn 1. Tuy nhiên, chiếc RB21 không thể đuổi kịp Piastri ở phía trên, trong khi dần bị Norris thu hẹp khoảng cách.
Tới vòng 13, Norris tận dụng tốc độ của chiếc MCL39 để vượt Verstappen ngay trên đoạn đường thẳng. Chứng kiến tốc độ của McLaren, Red Bull quyết định cho Verstappen về pit sớm ở vòng kế tiếp, qua đó theo đuổi chiến thuật 3 pit. Sự thay đổi của Red Bull không khiến McLaren dao động, đội đua nước Anh vẫn cho Piastri và Norris sử dụng chiến thuật 2 pit.
Mãi tới vòng 21 và 22, McLaren mới gọi hai tay đua nhà về pit thay lốp. Khi Verstappen về pit lần 2 ở vòng 29, tay đua Hà Lan nhanh chóng giành lại vị trí thứ ba đã mất vào tay Leclerc và bắt đầu thu hẹp khoảng cách với hai McLarens ở phía trước, với tốc độ khiến McLaren bắt đầu lo ngại. Tuy nhiên, đội đua nước Anh dần thở phào khi thấy tốc độ của chiếc RB21 chậm lại theo thời gian.
Dù chậm hơn đồng đội Piastri khoảng ba đến bốn giây trong hầu hết thời gian, Norris vẫn đảm bảo khoảng cách an toàn với Verstappen. Và khi tay đua người Hà Lan vào pit lần thứ ba ở vòng 47, McLaren cũng lần lượt gọi Norris rồi Piastri về thay lốp ở các vòng tiếp theo. Khi cả ba hoàn thành việc thay lốp lần cuối theo kế hoạch, nhóm dẫn đầu bám sát nhau, nhưng Piastri nhanh chóng tăng tốc tách khỏi Norris, người dần gia tăng khoảng cách với Verstappen trước khi xe an toàn xuất hiện.
Verstappen thừa nhận vận đen khi xe an toàn xuất hiện. Theo anh, lựa chọn theo đuổi chiến thuật 3 pit là đúng đắn vì lốp xe của Red Bull bị xuống cấp khá nhiều. "Thật không may, xe an toàn đã xuất hiện vào cuối chặng đua, và về cơ bản lúc đó, chúng tôi đã hết lốp dù lốp cứng rõ ràng không phải là lốp phù hợp. Khi chỉ còn 6 vòng đua, mọi người đều có thể chạy hết sức và tôi đã thiếu độ bám đường với bộ lốp cứng", nhà ĐKVĐ nói.
Kết quả Grand Prix Tây Ban Nha
Thứ
tự
| Tay đua
| Đội
| Vị trí
xuất phát
| Số lần về pit
| Fastest lap cá nhân
| Thành tích
| Điểm
|
1
| Oscar Piastri
| McLaren
| 1
| 3
| 1 phút 15,743 giây
| 1 giờ 32 phút 57,375 giây
| 25
|
2
| Lando Norris
| McLaren
| 2
| 3
| 1:16,187
| +2,471 giây
| 18
|
3
| Charles Leclerc
| Ferrari
| 7
| 3
| 1:17,259
| +10,455
| 15
|
4
| George Russell
| Mercedes
| 4
| 3
| 1:17,244
| +11,359
| 12
|
5
| Nico Hulkenberg
| Sauber
| 15
| 3
| 1:17,575
| +13,648
| 10
|
6
| Lewis Hamilton
| Ferrari
| 5
| 3
| 1:17,706
| +15,508
| 8
|
7
| Isack Hadjar
| Racing Bulls
| 9
| 3
| 1:17,770
| +16,022
| 6
|
8
| Pierre Gasly
| Alpine
| 8
| 3
| 1:17,896
| +17,882
| 4
|
9
| Fernando Alonso
| Aston Martin
| 10
| 3
| 1:18,128
| +21,564
| 2
|
10
| Max Verstappen
| Red Bull
| 3
| 4
| 1:17,019
| +21,826
| 1
|
11
| Liam Lawson
| Racing Bulls
| 13
| 2
| 1:19,424
| +25,532
| |
12
| Gabriel Bortoleto
| Sauber
| 12
| 2
| 1:18,297
| +25,996
| |
13
| Yuki Tsunoda
| Red Bull
| 19
| 4
| 1:17,998
| +28,822
| |
14
| Carlos Sainz Jnr
| Williams
| 17
| 3
| 1:19,317
| +29,309
| |
15
| Franco Colapinto
| Alpine
| 18
| 3
| 1:18,353
| +31,381
| |
16
| Esteban Ocon
| Haas
| 16
| 2
| 1:18,624
| +32,197
| |
17
| Oliver Bearman
| Haas
| 14
| 3
| 1:18,907
| +37,065
| |
18
| Kimi Antonelli
| Mercedes
| 6
| 2
| 1:18,255
| Bỏ dở cuộc đua
| |
19
| Alexander Albon
| Williams
| 11
| 3
| 1:20,508
| Bỏ dở cuộc đua
| |
20
| Lance Stroll
| Aston Martin
| 20
| -
| -
| Không xuất phát
| |
Bảng thứ bậc cá nhân sau 9 chặng
Thứ
tự
| Tay đua
| Đội
| Số lần thắng chặng
| Số lần thắng Sprint
| Điểm số
|
1
| Oscar Piastri
| McLaren
| 5
| | 186
|
2
| Lando Norris
| McLaren
| 2
| 1
| 176
|
3
| Max Verstappen
| Red Bull
| 2
| | 137
|
4
| George Russell
| Mercedes
| | | 111
|
5
| Charles Leclerc
| Ferrari
| | | 94
|
6
| Lewis Hamilton
| Ferrari
| | 1
| 71
|
7
| Kimi Antonelli
| Mercedes
| | | 48
|
8
| Alexander Albon
| Williams
| | | 42
|
9
| Isack Hadjar
| Racing Bulls
| | | 21
|
10
| Esteban Ocon
| Haas
| | | 20
|
11
| Nico Hulkenberg
| Sauber
| | | 16
|
12
| Lance Stroll
| Aston Martin
| | | 14
|
13
| Carlos Sainz Jnr
| Williams
| | | 12
|
14
| Pierre Gasly
| Alpine
| | | 11
|
15
| Yuki Tsunoda
| Red Bull
| | | 10
|
16
| Oliver Bearman
| Haas
| | | 6
|
17
| Liam Lawson
| Racing Bulls
| | | 4
|
18
| Fernando Alonso
| Aston Martin
| | | 2
|
19
| Gabriel Bortoleto
| Sauber
| | | |
20
| Franco Colapinto
| Alpine
| | | |
21
| Jack Doohan
| Alpine
| | | |
Bảng thứ bậc đội đua sau 9 chặng
Thứ
tự
| Đội
| Số lần thắng chặng
| Số lần thắng Sprint
| Điểm số
|
1
| McLaren
| 7
| 1
| 362
|
2
| Ferrari
| | 1
| 165
|
3
| Mercedes
| | | 159
|
4
| Red Bull
| 2
| | 144
|
5
| Williams
| | | 54
|
6
| Racing Bulls
| | | 28
|
7
| Haas
| | | 26
|
8
| Aston Martin
| | | 16
|
9
| Sauber
| | | 16
|
10
| Alpine
| | | 7
|
Minh Phương