Tại hội nghị triển khai các đề án về phát triển nguồn nhân lực và hợp tác ba nhà (nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp), sáng 14/6, nhiều cơ sở giáo dục đại học đánh giá việc này còn nhiều mắc.
Trong mối liên kết 3 nhà, nhà nước đóng vai trò định hướng chính sách, tạo hành lang pháp lý, kết nối các bên. Còn doanh nghiệp là đối tác chiến lược, định hướng nhu cầu đào tạo và tuyển dụng nhân lực. Trong khi đó, nhà trường cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, thực hiện nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
Theo PGS.TS Vũ Đình Tiến, Phó Trưởng ban Khoa học - Công nghệ, Đại học Bách khoa Hà Nội, một trong những hạn chế là về cơ chế và tốc độ. Ông nhìn nhận quy trình xét duyệt, cấp phát và thanh quyết toán kinh phí từ ngân sách nhà nước thường phức tạp, kéo dài, không phù hợp với tốc độ vận động của thị trường và công nghệ. Doanh nghiệp cần giải pháp trong 6 tháng đến một năm nhưng một quy trình đề tài có thể mất 2-3 năm, từ lúc đề xuất đến nghiệm thu.
"Nhiều đề tài bị hủy do phần đối ứng của doanh nghiệp giải ngân trước không khớp với tiến độ thực hiện của đề tài", ông Tiến giải thích.
GS.TS Nguyễn Thị Thanh Mai, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia TP HCM, đồng tình. Bà kể từ đầu năm, trường phải gửi đề xuất nghiên cứu khoa học lên cấp trên, chờ phê duyệt, đợi chuyển tiền về mới triển khai được. Khâu thanh, quyết toán sau đó cũng phức tạp.
Bên cạnh đó là hạn chế về động lực và cam kết. Theo ông Tiến, nhiều năm qua, mô hình phổ biến để thúc đẩy hợp tác nghiên cứu 3 nhà là các nhiệm vụ khoa học công nghệ dùng ngân sách nhà nước, có kinh phí đối ứng từ doanh nghiệp và do các trường thực hiện.
Song nguồn kinh phí nghiên cứu chủ yếu từ nhà nước đã vô tình làm giảm đi tính cam kết và áp lực thành công từ phía doanh nghiệp. Phần vốn "đối ứng" đôi khi chỉ mang tính hình thức, doanh nghiệp chưa thực sự coi đây là một khoản đầu tư chiến lược sống còn.
Về phía cơ sở giáo dục đại học, áp lực lớn nhất lại là các công bố khoa học và giải trình, quyết toán thủ tục hành chính, thay vì tạo ra một sản phẩm thương mại hóa được.
"Xung đột về mục tiêu này là rào cản lớn nhất", ông Tiến cho hay.
Một hạn chế nữa, theo PGS Tiến ở Đại học Bách khoa Hà Nội, là cơ chế về sở hữu trí tuệ trong các đề tài dùng ngân sách nhà nước còn nhiều điểm chưa rõ ràng, phức tạp. Điều này khiến doanh nghiệp e ngại đầu tư sâu vào giai đoạn thương mại hóa, vì lo rủi ro pháp lý và tranh chấp trong tương lai.
Còn theo PGS.TS Phạm Bảo Sơn, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, doanh nghiệp đặt hàng, đầu tư ban đầu, định hướng các hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong nhà trường gắn với thực tiễn. Song, các cơ chế ưu đãi chưa đủ mạnh để tạo động lực cho họ.
Trong khi đó, PGS.TS Đặng Hoài Bắc, Giám đốc Học viện Công nghệ Bưu chính thông, chỉ ra mối gắn kết 3 nhà còn lỏng lẻo do thiếu thông tin, dẫn tới hợp tác mang tính ngắn hạn.
Ông Sơn cùng quan điểm. Ông thấy khi các vấn đề nảy sinh, doanh nghiệp thường không biết kết nối với đơn vị hoặc nhà khoa học nào. Các chương trình, đề tài còn đặt ở nhiều Bộ, ngành, cơ quan và địa phương mà không có một "kiến trúc sư trưởng".
Một số bất cập khác là đầu tư cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo còn bị phân mảnh, thiếu ổn định, dẫn tới thiếu tính liên thông, đồng bộ, nên không tạo ra các sản phẩm đỉnh cao, liên ngành, liên lĩnh vực. Các sản phẩm được tạo ra chưa giải quyết vấn đề của doanh nghiệp, địa phương, gây lãng phí...
Trước những vướng mắc này, bà Mai ở Đại học Quốc gia TP HCM đề xuất có cơ chế để hòa dòng vốn trung ương, địa phương và doanh nghiệp vào quỹ khoa học công nghệ của đại học. Bà cũng đề nghị tăng phân cấp, phân quyền và linh hoạt cho đại học trong sử dụng quỹ, hướng đến hợp tác hiệu quả giữa ba nhà.
Với Đại học Quốc gia Hà Nội, ông Sơn thấy cần có cơ chế thu hút hiệu quả đầu tư xã hội cho hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, cho phép hình thức huy động vốn cộng đồng cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
Còn Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đề xuất xây dựng mô hình 3 nhà trong đào tạo, nghiên cứu ứng dụng, xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, đặt trong phạm vi quốc tế.
Về phía Đại học Bách khoa Hà Nội, ông Tiến cho rằng các bên cần đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu và phát triển chung với nhiều tập đoàn lớn theo hình thức đối tác công tư PPP... Mô hình hợp tác với doanh nghiệp cũng nên đổi mới từ "đối ứng" sang "đặt hàng".
Ngoài ra, cơ chế quản lý tài chính cho các nhiệm vụ khoa học công nghệ cũng phải được cải cách theo hướng chấp nhận rủi ro, thay vì chỉ tập trung vào quy trình và chứng từ. Cùng đó, nhà nước hoàn thiện khung pháp lý về sở hữu trí tuệ, trao quyền tự quyết cao hơn cho các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp trong thỏa thuận phân chia quyền lợi.
Đại học này cũng kiến nghị nhà nước chuyển dần vai trò từ "người cấp phát kinh phí" sang "người kiến tạo và hỗ trợ".
Bình Minh