Vị trí thứ 3 giúp Norris khép lại mùa giải với 423 điểm, nhiều hơn 2 điểm so với Verstappen, người có 8 chiến thắng chặng mùa này khi về nhất tại Abu Dhabi. Lợi thế xuất phát đầu giúp tay đua người Hà Lan sớm ổn định ở vị trí thứ nhất, nhưng là không đủ để anh ngược dòng bảo vệ chức vô địch khi Norris về đích trong top 3. McLaren đã kiểm soát tốt cục diện trong chặng đua đầy căng thẳng để hỗ trợ tay đua người Anh.
Norris khởi đầu thận trọng, không giao tranh với Verstappen - người đánh lái mạnh mẽ để bảo vệ vị trí dẫn đầu trước khi vào Turn 1. Sau đó, việc bị Oscar Piastri sớm vượt qua để lên thứ hai ngay từ góc cua số 9 vòng đầu tiên khiến tay đua người Anh tụt xuống thứ ba và chịu chút ít áp lực ở những vòng đầu khi Charles Leclerc áp sát ngay sau.
Tuy nhiên, Norris nhanh chóng tỉnh táo phản ứng để bứt tốc và giãn khoảng cách lên hơn 1 giây, ngăn cản tay đua Ferrari sử dụng cánh gió DRS tấn công. McLaren cho Piastri xuất phát với lốp cứng, còn Verstappen và Norris bắt đầu cuộc đua với lốp trung bình, vì vậy chiến thuật của đội đua nước Anh được lộ rõ là cho Piastri vào pit muộn hơn các đối thủ. Với chiến thuật này, McLaren dùng Piastri là con bài tẩy kề vào lưng Verstappen khiến Red Bull phân tâm, khi đội đua nước Anh sẵn sàng dùng tay đua số 2 để hỗ trợ Norris.
Trong khi đó, Norris được cho về pit sớm và chuyển sang dùng lốp cứng. Lúc này khoảnh khắc căng thẳng nhất cuộc đua của Norris xuất hiện. Khi trở lại đường đua, tay đua người Anh chạy phía sau tay đua số 2 của Red Bull là Yuki Tsunoda. Red Bull đã cho Tsunoda xuất phát với lốp cứng với mục đích rõ ràng là cố gắng gây ảnh hưởng đến cuộc đua của bộ đôi McLaren, giống như cách người tiền nhiệm Sergio Perez đã làm với Lewis Hamilton trong chặng quyết định gây tranh cãi Abu Dhabi năm 2021.
Ngay lập tức, Red Bull đã chỉ đạo tay đua người Nhật Bản cố gắng kìm chân Norris hòng đẩy chiếc MCL39 vào tầm tấn công của Leclerc. Dù vậy, sức mạnh của chiếc RB21 là không đủ để ngăn cản Norris. Tsunoda đã có hành vi đánh võng trên đoạn đường thẳng ở vòng 23 khi Norris đang bứt tốc để tìm cách vượt mặt. Tuy nhiên, tay đua người Anh vẫn bám sát vào mép đường và giữ chặt chân ga ngay cả khi chiếc MCL39 bị ép ra khỏi đường đua.
Pha đọ sức này ngay lập tức đã được các trọng tài kiểm tra về khả năng liệu Norris có bị phạt vì vượt khi chạy ra khỏi đường đua. Nhưng sau ít phút xem xét, trọng tài quyết định phạt Tsunoda 5 giây vì đánh võng trên đường. Norris không bị phạt trong tình huống này. Từ lúc này không còn ai có thể cản được Norris.
Sau khi Norris về thay lốp lần hai giống Leclerc nhằm tránh nguy cơ bị nhảy cóc, tay đua người Anh đã thu hẹp khoảng cách và bám sát Piastri ở giai đoạn cuối do tay đua người Australia về pit muộn. Việc cả 20 xe đều an toàn về đích khiến cuộc đua không có biến cố nào đáng kể để Red Bull có thể tận dụng cho Verstappen.
McLaren chấm dứt chuỗi 17 năm không có tay đua nào vô địch cá nhân kể từ sau Lewis Hamilton năm 2008. Đây cũng là lần đầu McLaren vô địch kép kể từ năm 1998, khi họ đăng quang cả ở giải cá nhân lẫn tập thể. Norris lên ngôi vương của làng F1 2025 và cũng là nhà vô địch cuối cùng của kỷ nguyên xe F1 hybrid thế hệ cũ. Kể từ mùa giải 2026, làng F1 sẽ bắt đầu sử dụng thế hệ xe F1 mới với nhiều thay đổi lớn.
Sau khi về đích và nhận được lời chúc mừng từ đội đua qua sóng radio, Norris đã khóc trong xe, cảm ơn họ cùng gia đình đã giúp anh có được vị trí để thực hiện ước mơ cả đời. "Đã quá lâu rồi tôi không khóc và tôi cũng không nghĩ mình sẽ khóc, nhưng hôm nay tôi đã khóc. Ý tôi là, cảm giác thật tuyệt vời, giờ tôi đã hiểu được cảm giác của Max khi vô địch", tay đua người Anh nói.
Norris sau đó ca ngợi hai đối thủ cạnh tranh vô địch - Verstappen và Piastri. "Được đua tranh với họ là một niềm vinh dự, và tôi cũng đã học được rất nhiều điều từ cả hai. Năm nay là một mùa giải rất dài nhưng cuối cùng chúng tôi vẫn vượt qua để vô địch và tôi tự hào về tất cả", Norris nói thêm.
Dù McLaren sở hữu chiếc xe nhanh nhất mùa giải 2025, chức vô địch của Norris vẫn gây ấn tượng mạnh vì những khó khăn mà tay đua người Anh phải đương đầu và vượt qua. Ngoài áp lực cạnh tranh nội bộ với Piastri - đồng đội đua ấn tượng ở giai đoạn giữa mùa, Norris còn chịu áp lực rất lớn khi Verstappen lấy lại phong độ xuất thần tạo nên thế đua tranh căng thẳng ở giai đoạn cuối mùa.
Lando Norris sinh năm 1999, trưởng thành từ các hạng đua trẻ với một số danh hiệu như FIA F3 châu Âu 2017, á quân F2 2018, trước khi gia nhập McLaren và ra mắt F1 mùa 2019. Norris nhanh chóng gây ấn tượng nhờ tốc độ ổn định, khả năng kiểm soát lốp và phong cách thi đấu thông minh.
Qua từng mùa, tay đua người Anh trở thành ngôi sao mới của McLaren, liên tục giành podium và đóng vai trò then chốt trong hành trình hồi sinh của đội. Mùa 2025 chứng kiến bước ngoặt lớn nhất sự nghiệp khi Norris thi đấu bùng nổ, thắng 7 chặng và thể hiện sự ổn định vượt trội để lần đầu tiên vô địch thế giới F1, trở thành biểu tượng mới của thế hệ tay đua trẻ.
Kết quả Grand Prix Abu Dhabi
Thứ
tự
| Tay đua
| Đội
| Vị trí
xuất phát
| Số lần về pit
| Fastest lap cá nhân
| Thành tích
| Điểm
|
1
| Max Verstappen
| Red Bull
| 1
| 1
| 1 phút
27,625 giây
| 1 giờ 26 phút 07,469 giây
| 25
|
2
| Oscar Piastri
| McLaren
| 3
| 1
| 1:26,765
| +12,594 giây
| 18
|
3
| Lando Norris
| McLaren
| 2
| 2
| 1:26,818
| +16,572
| 15
|
4
| Charles Leclerc
| Ferrari
| 5
| 2
| 1:26,725
| +23,279
| 12
|
5
| George Russell
| Mercedes
| 4
| 1
| 1:28,599
| +48,563
| 10
|
6
| Fernando Alonso
| Aston Martin
| 6
| 1
| 1:28,279
| +1:07,562
| 8
|
7
| Esteban Ocon
| Haas
| 8
| 1
| 1:28,655
| +1:09,876
| 6
|
8
| Lewis Hamilton
| Ferrari
| 16
| 2
| 1:28,094
| +1:12,670
| 4
|
9
| Nico Hulkenberg
| Sauber
| 18
| 2
| 1:27,050
| +1:19,014
| 2
|
10
| Lance Stroll
| Aston Martin
| 15
| 1
| 1:27,626
| +1:19,523
| 1
|
11
| Gabriel Bortoleto
| Sauber
| 7
| 1
| 1:29,114
| +1:21,043
| |
12
| Oliver Bearman
| Haas
| 11
| 1
| 1:28,976
| +1:21,166
| |
13
| Carlos Sainz Jnr
| Williams
| 12
| 1
| 1:29,052
| +1:22,158
| |
14
| Yuki Tsunoda
| Red Bull
| 10
| 1
| 1:28,557
| +1:23,794
| |
15
| Kimi Antonelli
| Mercedes
| 14
| 1
| 1:28,029
| +1:24,399
| |
16
| Alexander Albon
| Williams
| 17
| 2
| 1:28,367
| +1:30,327
| |
17
| Isack Hadjar
| RB
| 9
| 1
| 1:29,375
| +1 vòng
| |
18
| Liam Lawson
| RB
| 13
| 1
| 1:28,886
| +1 vòng
| |
19
| Pierre Gasly
| Alpine
| 19
| 2
| 1:27,767
| +1 vòng
| |
20
| Franco Colapinto
| Alpine
| 20
| 2
| 1:27,710
| +1 vòng
| |
Bảng điểm cá nhân mùa 2025
Thứ
tự
| Tay đua
| Đội
| Số lần thắng chặng
| Số lần thắng Sprint
| Điểm số
|
1
| Lando Norris
| McLaren
| 7
| 2
| 423
|
2
| Max Verstappen
| Red Bull
| 8
| 2
| 421
|
3
| Oscar Piastri
| McLaren
| 7
| 1
| 410
|
4
| George Russell
| Mercedes
| 2
| | 319
|
5
| Charles Leclerc
| Ferrari
| | | 242
|
6
| Lewis Hamilton
| Ferrari
| | 1
| 156
|
7
| Kimi Antonelli
| Mercedes
| | | 150
|
8
| Alexander Albon
| Williams
| | | 73
|
9
| Carlos Sainz Jnr
| Williams
| | | 64
|
10
| Fernando Alonso
| Aston Martin
| | | 56
|
11
| Nico Hulkenberg
| Sauber
| | | 51
|
12
| Isack Hadjar
| Racing Bulls
| | | 51
|
13
| Oliver Bearman
| Haas
| | | 41
|
14
| Liam Lawson
| Racing Bulls
| | | 38
|
15
| Esteban Ocon
| Haas
| | | 38
|
16
| Lance Stroll
| Aston Martin
| | | 33
|
17
| Yuki Tsunoda
| Red Bull
| | | 33
|
18
| Pierre Gasly
| Alpine
| | | 22
|
19
| Gabriel Bortoleto
| Sauber
| | | 19
|
20
| Franco Colapinto
| Alpine
| | | |
21
| Jack Doohan
| Alpine
| | | |
Bảng điểm đội đua mùa 2025
Thứ
tự
| Đội
| Số lần thắng chặng
| Số lần thắng Sprint
| Điểm số
|
1
| McLaren
| 14
| 3
| 833
|
2
| Mercedes
| 2
| | 469
|
3
| Red Bull
| 8
| 2
| 451
|
4
| Ferrari
| | 1
| 398
|
5
| Williams
| | | 137
|
6
| Racing Bulls
| | | 92
|
7
| Aston Martin
| | | 89
|
8
| Haas
| | | 79
|
9
| Sauber
| | | 70
|
10
| Alpine
| | | 22
|
Minh Phương