"Bệnh ảnh hưởng đến da, kéo theo hàng loạt bệnh đồng mắc như tăng huyết áp, đái tháo đường, tim mạch, viêm gan B nên được gọi là hiệu ứng domino ở bệnh nhân vảy nến", BS.CKII Hoàng Thị Phượng, Trưởng khoa Điều trị nội trú ban ngày, Bệnh viện Da liễu Trung ương, cho biết tại lễ kỷ niệm Ngày Vảy nến Thế giới với chủ đề Bệnh vảy nến và các bệnh đồng mắc - Tìm hiểu về hiệu ứng domino, hôm 26/10.
Bệnh viện Da liễu Trung ương đang quản lý khoảng 5.000 bệnh nhân vảy nến, mỗi ngày có 20-40 bệnh nhân điều trị nội trú. Số người bệnh đến khám tăng vào dịp chuyển mùa, thời tiết hanh khô như hiện nay.
Vảy nến là bệnh da mạn tính, ảnh hưởng khoảng 2% dân số Việt, tương đương hai triệu người, theo số liệu của Bộ Y tế. Các thương tổn da có thể rải rác hoặc lan tỏa toàn thân. Cơ chế sinh bệnh gồm yếu tố gene di truyền, rối loạn miễn dịch, môi trường. Các yếu tố có thể làm bệnh nặng hơn là sang chấn như gãi, chà xát mạnh. Các stress tâm lý, sử dụng thuốc corticosteroid, lithium... có thể làm bệnh nặng lên.
Cơ chế sinh bệnh của vảy nến có liên quan đến sự hoạt động quá mức của hệ miễn dịch, gây ra một phản ứng viêm mạn tính tác động đến nhiều cơ quan khác nhau, theo bác sĩ Phượng. Đây là mắt xích quan trọng liên kết vảy nến với các bệnh lý đồng mắc. Nếu không kiểm soát tốt các bệnh đi kèm, tình trạng vảy nến sẽ nặng thêm, nguy cơ biến chứng cao hơn, hiệu quả điều trị giảm và tâm lý người bệnh bị ảnh hưởng.
Bệnh lý tim mạch và hội chứng chuyển hóa là nhóm bệnh đồng mắc phổ biến và nguy hiểm nhất ở bệnh nhân vảy nến. Tình trạng viêm mạn tính trong vảy nến có thể ảnh hưởng đến các mạch máu và tim, làm tăng nguy cơ tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, đái tháo đường tuýp 2, béo phì. Sự kết hợp của các yếu tố trên được gọi là hội chứng chuyển hóa, làm tăng đáng kể nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ.
Bệnh vảy nến không gây chết người nhưng ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý và chất lượng cuộc sống. Ở một số bệnh nhân nặng, việc đầu tiên khi thức dậy là dọn vảy ở ga giường, khiến họ sống nặng nề như "ung thư giai đoạn cuối". Hiện nay, bệnh chưa có phương pháp điều trị khỏi hoàn toàn, do đó việc quản lý và theo dõi lâu dài đóng vai trò cốt lõi trong chiến lược điều trị.
Hiện với sự tiến bộ của y học, có nhiều phương pháp điều trị vảy nến như điều trị tại chỗ, điều trị toàn thân hay liệu pháp ánh sáng, ứng dụng thuốc sinh học. Các phương pháp này có thể giúp tình trạng bệnh được kiểm soát, giảm bớt ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý, đồng thời ngăn ngừa và hạn chế tối đa các biến chứng.
Trong đó, thuốc sinh học là một lựa chọn mới, hiệu quả cho nhiều bệnh nhân vảy nến. Hiện nay, nhiều loại thuốc sinh học có giá từ 150 đến 250 triệu đồng/năm, được Quỹ BHYT chi trả 50%, song nhiều người vẫn khó tiếp cận. Vì vậy, các bác sĩ kiến nghị nâng mức thanh toán từ 50% lên 70% với một số thuốc sinh học và bổ sung thêm các thuốc sinh học mới vào danh mục BHYT, đễ hỗ trợ nhóm bệnh nhân này.
Tại buổi lễ, ThS Nguyễn Văn Thành, Phó Giám đốc Bệnh viện Da liễu Trung ương, cho hay bệnh viện đã hỗ trợ cơ sở y tế tuyến dưới thành lập các phòng khám chuyên đề. Sau hai năm triển khai, hiện có 26 phòng khám vảy nến ở các tỉnh thành. Nhờ vậy, bệnh nhân vảy nến được quản lý và điều trị ngay tại tuyến cơ sở, không còn phải vượt hàng trăm cây số mỗi lần tái khám.
Lê Nga