Sách do nhà thơ Nguyễn Thụy Kha sưu tầm và biên soạn, được tái bản dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9. Sau cơn sốt phim Mưa đỏ, sách nằm trong số những ấn phẩm được nhiều độc giả tìm đọc.
Tác phẩm gồm hai phần, phần một là nhật ký Ra đi từ giảng đường của chiến sĩ giải phóng của Quân đội Nhân dân Việt Nam Đào Chí Thành. Phần hai Quảng Trị trong tôi là hồi ký của Nguyễn Thanh Quang, một thủy quân lục chiến trong quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Ông Đào Chí Thành nhập ngũ năm 1971, khi đang là sinh viên khoa toán Trường đại học Sư phạm Hà Nội. Nhật ký bắt đầu từ mốc thời gian 26/8/1971, chàng trai trẻ trải qua những ngày rèn luyện, học tập, chuẩn bị trước khi ra chiến trường. Trong ông luôn thường trực nỗi nhớ nhà, chỉ mong đến ngày hòa bình để được về với cha mẹ, các em: "Lúc nào anh cũng tưởng tượng được hình ảnh của các em. Hình ảnh các đứa em mà anh yêu quý và nhớ vô cùng. Biết làm sao bây giờ để được gặp các em, dù chỉ một phút giây cũng quý. Ôi lúc nào lòng tôi, lòng người chiến sĩ đang chiến đấu ngoài chiến trường cũng nhớ nhà tha thiết". Năm đầu tiên đón Tết trong quân ngũ, dù mong mỏi được quây quần bên gia đình, ông kiên định với lý tưởng "sẵn sàng hy sinh tất cả để những sinh viên sau chúng tôi không phải xếp bút nghiên ra trận".
Những lúc rảnh rỗi, ông vẫn thường trau dồi kiến thức, tự học tiếng Nga. Người lính tạm gác ước mơ làm nghiên cứu khoa học: "Tuổi thanh xuân của tôi đang sống và chiến đấu ở mặt trận. Tôi đang dâng hiến đời mình cho cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất cho đất nước, cho dân tộc mình. Song bất cứ lúc nào, lòng ham học và ước mơ khoa học vẫn ấp ủ trong tôi".
Ngày đầu chiến đấu căng thẳng, "pháo dập liên tục. Máy bay thả bom liên hồi. Khói bụi mù mịt, lùa vào hầm sặc sụa", một mình ông đã bắn 70 viên đạn. Khi có thời gian, ông Thành mới viết tiếp nhật ký. Ông hồi tưởng: "Có những ngày, riêng pháo đã rót vào chừng hai vạn quả. Riêng từ mồng một đến mồng 3/8, năm vạn trái pháo cỡ từ 105 đến 270mm đã phóng vào đất thị xã. Gạch, sắt vụn tung, xới nhào nhiều lần. Cả ngày không có lúc nào là không có tiếng nổ. Nó làm cho con người thêm căng thẳng về thần kinh". Trong điều kiện chiến trường khốc liệt, không đủ lương thực, các chiến sĩ ăn uống chỉ có cơm, canh ruốc loãng và nước lã. Sau một tháng, đại đội của ông hy sinh năm người. Thị xã Quảng Trị trở thành nơi tập trung bom đạn dày chưa từng có trong lịch sử chiến tranh.
Qua nhiều ngày đêm, giai đoạn chiến đấu bảo vệ Thành cổ chấm dứt, ngày 16/9/1972, ông Thành sang sông. Trước khi rời trận địa, ông cất tiếng chào: "Chào Thành cổ! Chúng tôi đi! Hẹn ngày gặp lại".
Ngày về phép, ông vẫn canh cánh về đồng đội ở chiến trường: "Đồng đội tôi vẫn kiên cường chiến đấu, máu vẫn đổ, vẫn hy sinh, hết đợt phép này, chúng tôi sẽ trở lại đơn vị tiếp tục chiến đấu cho đến ngày toàn thắng".
Phía bên kia chiến tuyến là hình ảnh người lính thủy quân lục chiến can trường, am hiểu trận chiến nhưng luôn nặng trĩu tâm tư. Ông Nguyễn Thanh Quang có tên khai sinh là Phan Văn Lân, sinh năm 1953 (cùng năm sinh với ông Đào Chí Thành) tại Bình Thuận. Ông gia nhập quân lực Việt Nam Cộng hòa năm 1970. Tại Thành cổ Quảng Trị năm 1972, ông là toán trưởng khinh binh (trinh sát).
Trong hồi ký, ông cho biết trải qua nhiều trận đánh, "chỉ biết bắn giết", ông đã quen dần tử khí, "ăn ngủ cùng tang thương", dù xung quanh đầy xác chết, ông "vẫn thấy bình thường". Hiện thực với ông vô cùng ác liệt, từng căn nhà đổ nát, cỏ mọc phủ sân, lạnh lẽo, cho thấy bom đạn đã phá hủy tất cả.
Ông "cảm thấy bị buộc phải chiến đấu", tuổi trẻ, hoài bão bị chôn vùi trong khói lửa. Ông Quang cho rằng chiến tranh biến những con người vốn không thù hận nhau thành kẻ đối đầu. Họ chưa từng quen biết, không có ân oán nhưng phải chém giết lẫn nhau vì "luật chiến tranh", nếu "tôi không bắn anh thì anh sẽ bắn tôi".
Tác phẩm thể hiện sự đối lập giữa mục đích và lý tưởng cầm súng chiến đấu của hai người lính, song họ có chung một khát vọng sống, yêu hòa bình. Ông Quang bày tỏ xót xa trong hồi ký: "Có biết bao nhiêu người tuổi mười tám, đôi mươi đã phải nằm lại nơi đây mãi mãi. Mùa hè năm 1972 ở Quảng Trị là vùng bom đạn, là lò giết người. Mùa hè của đại lộ kinh hoàng, của Thành cổ nát tan tuổi hoa trong biển lửa, máu thịt Việt Nam đã đổ khắp trên đất Quảng Trị. Bom đạn cày tan thân xác người Việt Bắc - Nam".
Sau ngày đất nước thống nhất, ông Nguyễn Thanh Quang ra trình diện, đi học cải tạo. Cuộc sống nhiều khi rơi vào cảnh chật vật, bế tắc khiến ông mong muốn tìm chỗ dựa tinh thần. Ông từng liên lạc với Hội Cựu chiến binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ để mong gặp lại đồng đội cũ, sẻ chia nỗi niềm và gửi đơn đến Tổng lãnh sự Mỹ tại TP HCM để tham gia chương trình tái định cư nhân đạo HR của Chính phủ Mỹ nhưng đều không được phản hồi.
Năm tháng qua đi, ông có nhiều thời gian suy ngẫm về cuộc chiến, ở quê nhà, ông "sống nghèo khổ nhưng vẫn được biết đến như một nhân chứng sống của một thời chiến tranh". Qua giao lưu, ông tiếp xúc với nhiều cựu chiến binh quân giải phóng từng tham gia chiến đấu năm 1972 và gặp gỡ ông Đào Chí Thành, khi ấy là tiến sĩ khoa học, viện trưởng Viện Công nghệ điện tử. Họ đã "thực hiện hòa hợp dân tộc bằng chính tình bạn của mình, quên đi quá khứ, hướng tới tương lai".
Sau đó, ông Quang viết hồi ký về những tháng ngày ở chiến trường, ông muốn "viết chân thật chỉ mong để thế hệ sau đọc và ngẫm nghĩ đúng đắn về thời chúng tôi". Viết xong, ông giao cho ông Thành để "tùy bạn sử dụng". Hồi ký được kết hợp cùng nhật ký Ra đi từ giảng đường của ông Đào Chí Thành, tượng trưng tinh thần vượt lên quá khứ để yêu thương đồng bào.
Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha từng nói về mục đích khi đặt ghi chép của hai người lính trong cùng một tác phẩm: ''Tôi hy vọng với một ấn phẩm khắc họa tâm tư, tình cảm của hai người lính ở hai chiến tuyến đối lập, chủ trương hòa hợp dân tộc sẽ ngày càng sâu rộng''.
Tác giả Nguyễn Thụy Kha (1949-2025) là nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, nhà báo, nhà nghiên cứu âm nhạc. Ông tốt nghiệp Đại học Thông tin và Trường Viết văn Nguyễn Du, từng phục vụ trong quân đội từ năm 1972 đến 1990 với vai trò kỹ sư thông tin. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1990. Một số tác phẩm của ông gồm Hương nắng tiếng chim (thơ, in chung, 1982), Mắt thời gian (thơ, 1988), Lúc ấy - biển (thơ, 1989), Văn Cao - Người đi dọc biển (tập truyện, 1992), Hàn Mặc Tử - Thi sĩ đồng trinh (tập truyện, 1993), Một lần thơ trẻ (truyện ngắn, 1994). Năm 2022, ông viết cuốn Hương về tình yêu, tình người ở chiến trường Quảng Trị năm xưa. Ông là tác giả phim tài liệu Nguyễn Bỉnh Khiêm - Cây đại thụ rợp bóng 500 năm, phát hành năm 1991.
Châu Anh