Nghệ sĩ Hữu Châu ra sách Chiếc nôi vàng giông bão - dự án anh ấp ủ nhiều năm qua, do tác giả Thanh Thủy chấp bút. Sách gồm tám phần với 40 chương, bao quát một đời làm nghề của Hữu Châu, từ thuở ấu thơ đến khi trở thành gương mặt kỳ cựu của sân khấu miền Nam. Dịp này, VnExpress đăng một số trích đoạn, tên các phần do tòa soạn đặt.
Hai đứa nhỏ trong tôi
Má Ba mất. Gần như tuổi thơ của tôi cũng hạ màn theo.
Gần như vô thức, tôi biến đổi. Một cột mốc vô hình phân định hai đứa nhỏ trong tôi.
Đứa trước sao hồn nhiên quá thể! Nó như một con xúc xắc tươi vui, đã vậy còn giàu và sang, dù có lúc cả nhà xuống cấp buôn gánh bán bưng nhưng cốt cách vẫn ngon lành. Nó đến trường thì "thiếu gia", vô đoàn hát thì "cháu cưng bà bầu". Bà Nội dạy kỹ, nó phá phách nghịch ngợm nhưng khá lễ phép, nó thích bày trò lém lỉnh dàn trời mây, có khi náo động một góc hậu trường. Về nhà lại được ưu tiên khi thì thủ thỉ với Má Ba, khi thì đi ăn chè đầu hẻm.
Nó nhớ da diết, nhớ từng chi tiết nhỏ. Nhớ mái tóc dài của Má Ba. Đó là một "suối tóc" đẹp, êm mượt, đúng như bài hát của Văn Phụng: "Hay đi tìm dòng suối tóc trên vai...". Mỗi lần Má Ba gội đầu thì gần giống ngày hội của mấy đứa nhỏ trong nhà.
Nó thường được Má kêu, dùng bông gòn thấm dầu thơm, nâng niu miết nhẹ vào chân tóc. Rồi Má Ba xõa mớ tóc đen dài vô thau nước, có đứa đứng trên cao nhè nhẹ thả nước xuống dòng suối đó. Nước óng ánh luồn vào trong tóc, Má Ba vui vẻ sảng khoái với mái tóc thơm phức.
Ôi! Tuổi thơ ngọc ngà thánh thót!
Đứa thứ hai! Nó từ đâu không biết, chỉ một thời gian ngắn sau đám tang, nhập vô tôi như một phiên bản u buồn. Nó cùng tôi lặng lẽ quan sát Bà Nội, thấy ở bà cả một biển trời dồn nén không lời. Vì có nó, tôi biết nhói lòng khi nhìn bà.
Tôi biết lặng lẽ đau đớn khi nghe người nhà kể lại phút cuối cùng của Má Ba. Má được đưa đi cấp cứu trên một chiếc xích lô. Xe chạy băng băng hối hả, không ai để ý đến bàn chân của Má Ba thõng xuống. Đến khi liệm má, người ta mới thấy bàn chân son đó bị mặt đường làm cho trầy xước quá nhiều.
Vì vậy chắc Bà Nội đau đớn gấp ngàn lần tôi.
Chúng tôi để ý nhau nhiều hơn trong đám đông lao xao của đại gia đình. Bà và tôi yêu nhau hơn, khẽ khàng và im lặng. Tôi biết chăm sóc Bà bằng khả năng nhỏ xíu của mình, như đưa trầu rót nước, giành bới cơm cho Nội..., chia sẻ với Bà bằng những câu tự đáy lòng, vì rất khó khăn tôi mới thốt ra được.
Tôi biết nhìn gánh hát to lớn đang xuệch xoạc của bà bằng đôi mắt chững chạc. Tôi bắt đầu hơi suy nghĩ, biết nhìn ngó tìm kiếm một chỗ đàng hoàng cho mình ở trong đó...
- Nội ơi, mấy rày con học cũng khá, Nội đừng lo.
- Vậy hả, ráng học nha. Học hành đàng hoàng tới nơi tới chốn rồi tính. Nội không cho đi hát sớm đâu, đừng đòi.
- Nhưng hè thì con đi theo đoàn được, phải không Nội?
- Học trước đã, dù khó khăn thế nào, Nội cũng kêu ba má bây cho con cái học hành tử tế.
Khi những suy tư non nớt của tôi vẫn còn lan man, tôi đang nửa em thơ, chưa trăng tròn, vẫn công tử nhí, thì chúng tôi... mất đoàn hát.
"Mất đoàn hát", đó là câu cửa miệng của giới nghệ sĩ Sài Gòn xưa gọi chủ trương tập thể hóa các đoàn nghệ thuật tư nhân của chính quyền, vào khoảng năm 1978.
Tôi còn nhỏ mà, nào đã biết gì. Tôi chỉ nhìn thấy sự hoảng loạn, xào xáo chung quanh mình. Một cuộc tan tác tứ tán của lòng người mà ký ức của tôi giữ lại.
Lúc Bà Nội được gọi tới để thông báo chủ trương mới, Bà cũng nói một vài câu với người đại diện chính quyền, sau đó lặng lẽ gật đầu ra về. Bà là chủ một đoàn hát lớn, sự chấp nhận của Bà có ảnh hưởng nhất định tới nhiều đoàn hát và nhiều người khác. Nghệ sĩ và công nhân ở các rạp hát vắng vẻ dần. Người ra bán hàng rong, người về quê, đi kinh tế mới, thậm chí có những nghệ sĩ tên tuổi đi đạp xích lô. Ai quơ quào được gì thì phải quơ quào cho trước mắt.
Cuộc sống lúc đó thúc bách quá. Đoàn Thanh Minh Thanh Nga (Đoàn được lấy tên Má Ba sau khi Má mất) thì chưa đến nỗi vậy. Vì thời kỳ đầu, Bà Nội vẫn còn cầm trịch. Bà cố gắng giữ từng chút, từng người một. Đoàn bị thu hẹp, nhưng vẫn hoạt động có kỷ cương. Những tuồng tích danh tiếng, nhiều dấu ấn của Má Ba như: Tiếng trống Mê Linh, Thái hậu Dương Vân Nga, Tấm lòng của biển... vẫn được Nội chăm chút, tìm nghệ sĩ khác để thay thế.
Vô tập thể rồi, nhưng đâu có ai chia sớt gánh nặng. Chỉ có trách nhiệm lo toan lớn hơn mà quyền hạn thì chia năm xẻ bảy. Cha chung không ai chăm. Bà Nội lại phải cầm cố căn nhà ở đường Trần Hưng Đạo lần thứ hai, để đưa đoàn đi lưu diễn miền Bắc.
Nội cô đơn và mệt lắm, tôi biết. Nội chịu đựng và nhẫn nại đến mức càng lúc bà càng ít lời. Nội thường ngồi nhai trầu một mình, im lặng. Người đàn bà thao lược của tôi co lại, ở một tư thế cam chịu. Nội khác hẳn những ngày Bà ngồi linh hoạt trên chiếc ghế quen thuộc, quan sát, điều binh khiển tướng, thấy cả đoàn hát nhịp nhàng chuyển động, trong một guồng quay vui vẻ ai vào việc nấy.
Năm 15 tuổi, tôi được Nội cho phép theo đoàn ra miền Bắc. Nội nói:
- Ngày trước, lúc đoàn hát toàn quyền là của nhà mình, con cháu trong nhà muốn lãnh lương phải làm việc, làm theo sức theo tài. Nội không châm chước riêng tư gì hết nhưng cũng du di cho đem người nhà hay mấy đứa nhỏ theo. Tuy nhiên giờ "tập thể" rồi, càng phải rõ ràng, đứa nào muốn đi theo đoàn, phải vô biên chế, mới có suất gạo, suất cơm, suất lương...
- Dạ, Nội.
Vậy là tôi vui vẻ bắt đầu những vai diễn đầu đời vô danh. Tôi làm quần chúng, làm lính trong đoàn lính, chứ cũng chưa được làm lính đơn, "có thoại" (tức là ra sân khấu nói câu muốn tâu hay xin tuân lệnh rồi chạy vô). Tôi lãnh hết, không từ nan vai gì, lúc múa may vũ công, lúc quân giặc, lúc nghĩa binh. Tôi làm riết, cho đến ngày tình cờ tôi được nhường vai người lính trạm trong tuồng Thái hậu Dương Vân Nga, tôi sung sướng tê tái hát vang điệu "Ú liu u xáng" mà thấy lồng ngực mình nở ra đầy hãnh diện.
Tôi vui một mình đến cả tuần lễ vì cái "Ú liu u xáng" đó.
Còn tiếp
(Trích sách Hữu Châu - Chiếc nôi vàng giông bão)
Hữu Châu 59 tuổi, là một trong những nghệ sĩ thuộc thế hệ vàng của sân khấu kịch TP HCM thập niên 1990. Cùng Thành Lộc, Hữu Châu diễn cho sân khấu kịch Idecaf từ cuối những 1990, khi ông "bầu" Huỳnh Anh Tuấn mới thành lập, mặt bằng thuê ở Viện trao đổi văn hóa với Pháp. Anh đóng nhiều tác phẩm, từ kịch thiếu nhi (series Ngày xửa ngày xưa), kịch người lớn (Tấm Cám, Cậu Đồng, Dạ cổ hoài lang), chính sử (Bí mật vườn Lệ Chi, Ngàn năm tình sử).
Cuối thập niên 1990 - đầu 2000, Idecaf thổi luồng gió mới vào kịch nói Sài Gòn, với loạt vở ăn khách. Trong đó, Hữu Châu, Thành Lộc được khán giả và giới chuyên môn xem là tên tuổi trụ cột của điểm diễn. Từ năm 2023, anh gia nhập sân khấu Thiên Đăng - sàn diễn mới thành lập. Anh còn đóng điện ảnh với các phim Lô tô (2017), Cua lại vợ bầu (2019), Công tử Bạc Liêu (2024), Lật mặt 8 (2025) cùng loạt phim truyền hình.