Từng là một chiến sĩ đặc công hoạt động ở vùng ven đô Sài Gòn, nhà văn Chu Lai thấm thía hoàn cảnh con người trong và sau chiến tranh. Viết về đề tài này, ông tâm niệm: "Chiến tranh đòi hỏi anh hãy miêu tả nó như nó vốn có, nếu anh tô đen nó lắc đầu, tô hồng nó cũng lắc đầu. Nó vừa trần trụi vừa hào hùng, vừa khốc liệt nhưng vừa lãng mạn". Điều đó được thể hiện trong các tác phẩm như: Nắng đồng bằng, Ăn mày dĩ vãng, Phố và Mưa đỏ.
Từ cuối tháng 8/2025, lượng người tìm mua tiểu thuyết Mưa đỏ của Chu Lai sau khi xem phim điện ảnh cùng tên (đạo diễn Đặng Thái Huyền) tăng đáng kể. Nhiều đơn vị cung cấp sách cho biết, Mưa đỏ liên tục trong tình trạng "cháy" hàng.
Nắng đồng bằng (1978)
Nắng đồng bằng là tiểu thuyết đầu tay của Chu Lai. Nhà phê bình Văn học Bùi Việt Thắng nhận xét sáng tác như "tấm giấy thông hành", định vị Chu Lai trên văn đàn những năm "tiền Đổi mới".
Tác phẩm theo chân một đội lính đặc công nhận nhiệm vụ đến vùng ven sông Sài Gòn trinh sát địa hình. Ở vùng cài răng lược hiểm nguy, họ đối mặt với nhiều thử thách, cần tìm ra phương án tác chiến thích hợp trong điều kiện thiên nhiên khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn, kẻ thù địch - ta lẫn lộn. Những tháng ngày mưa bom bão đạn, họ nhớ về đồng bằng, nơi có ký ức về xóm làng, tình người ấm áp, bữa cơm gia đình và tiếng xe bò quen thuộc.
Chiến tranh gây ra cho người lính những nỗi đau về cả thể xác lẫn tinh thần. Nó biến những chàng sinh viên ngây ngô thành những người đàn ông chai sạn, cứng cỏi, dần mất đi nỗi sợ hãi cái chết. Sau những năm tháng khắc nghiệt, "sức bay bổng trong tâm hồn" của họ vơi đi. Nhân vật Linh là một ví dụ điển hình. Anh đã chứng kiến đồng đội lần lượt ngã xuống, từ cái chết thảm khốc của Tùng đến sự hy sinh của đội trưởng Sáu Hóa và chấp nhận việc đánh mất tình yêu nơi hậu phương.
Nhà văn khắc họa nhân vật trong Nắng đồng bằng không chỉ là những anh hùng phi thường mà còn là những con người bình dị, với những cảm xúc và khát khao. Dù chiến tranh khốc liệt, nó không thể tước đi nhân tính, những suy tư về ý nghĩa của sự hy sinh, tình yêu dang dở và ngày hòa bình.
Hình ảnh ánh nắng được sử dụng xuyên suốt để làm nổi bật những cung bậc cảm xúc của người lính. Hầu hết mỗi chương đều mở đầu bằng miêu tả về nắng, lúc gay gắt, chói chang như những thử thách cam go mà người lính phải đối mặt, lúc lại dịu dàng, ấm áp như những rung động của họ trước cảnh vật quê hương.
Nhà văn Chu Lai đã nhân cách hóa, biến nắng thành một thực thể có thể cảm nhận được: "Nắng lúc mỏng tang, lúc sánh lại cảm giác nếu đưa lưỡi ra, sẽ nếm ngay được các vị tê tê ngòn ngọt của nó". Nắng hay chính là thiên nhiên không chỉ là bối cảnh mà còn gắn bó, che chở cho người lính trong quãng đời gian khổ.
Ăn mày dĩ vãng (1991)
Ăn mày dĩ vãng xoay quanh hành trình quay về quá khứ của cựu binh Hai Hùng, một chiến sĩ quân giải phóng vùng ven đô thành Sài Gòn. Trong chiến tranh, anh là người chỉ huy oai phong, được đồng đội ví như "người thuyền trưởng tài ba giữa muôn trùng sóng cả", bà con yêu quý. "Kẻ thù gọi anh là tên sát nhân tài tử, là nghệ sĩ cầm súng ảo thuật". Nhưng hậu chiến, anh không thể thích nghi, lạc lõng, cô độc, sống với lý tưởng hướng về dĩ vãng "luôn trong lành chân thật".
Ra đời trong bối cảnh văn học Đổi mới, hình tượng người lính được khắc họa gần gũi với đời thường, có những mất mát, nỗi niềm sâu kín, riêng tư khác với hình mẫu "luôn đứng cao hơn hoàn cảnh", mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Một ngày, Hai Hùng tình cờ gặp một người phụ nữ mang hình bóng của Ba Sương, nữ quân y từng là người yêu của anh và đã hy sinh. Dẫu Ba Sương, giờ là Tư Lan, giám đốc Sở Lâm nghiệp đầy quyền uy, linh cảm vẫn mách bảo anh rằng đó chính là cố nhân. Từ đây, câu chuyện lần ngược về ký ức. Qua những hồi tưởng của Hai Hùng, hiện thực cuộc chiến tàn khốc hiện lên. Anh dằn vặt khi đứng trước tòa án lương tâm, vì chiến tranh mà trở nên tàn bạo, giết chóc. Anh cũng ân hận vì đã chạy vào hầm trước thay vì ra cứu người mình yêu, để rồi thất lạc, phải tự tay chôn cất Ba Sương, song lại nhầm người.
Hành trình lần về quá khứ của Hai Hùng đầy gian nan, bởi người con gái anh yêu lựa chọn chạy trốn dĩ vãng. Ba Sương, giờ thỏa hiệp với cái ác và cố tình chối bỏ mọi chuyện xưa cũ, không dám đối diện với chính mình để yên ổn ở hiện tại. Dù sau cùng cả hai đã tìm lại nhau và mọi bí ẩn đều được giải mã, mọi sự đã quá muộn màng. Tình yêu của họ là bi kịch - vẫn còn trong trẻo và thủy chung, nhưng lại không thể đến được với nhau nữa.
Mạch truyện trong tác phẩm đồng hiện, đan xen giữa quá khứ, thực tại thay vì tuyến tính. Vì thế, tâm lý nhân vật được khắc họa phong phú, phức tạp.
Tác phẩm giành giải A của Hội đồng Văn học về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang của Hội Nhà văn năm 1993; Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng năm 1994. Tiểu thuyết cũng được chuyển thể thành phim Người đi tìm dĩ vãng do NSND Trần Phương và NSƯT Tất Bình đạo diễn, phát hành năm 1992.
Phố (1992)
Phố khắc họa cuộc sống hậu chiến của những người lính phải vật lộn với gánh nặng mưu sinh và sự thay đổi của xã hội đi từ cơ chế bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Câu chuyện xoay quanh một nhóm đồng đội gắn bó với con phố Nhà Binh, nơi họ đối mặt với những giằng xé giữa tình yêu, tình đồng đội và hiện thực phũ phàng.
Nổi bật trong tiểu thuyết là số phận của từng cá nhân: vợ chồng Nam và Thảo, với tình yêu nảy nở từ thời chiến, lại tan vỡ khi Thảo trở về giàu có sau thời gian ở nước ngoài. Sự khác biệt về lối sống và tư tưởng đã tạo nên một khoảng cách không thể hàn gắn. Trong khi đó, Lãm lại phải bươn chải đủ nghề để nuôi sống gia đình, từ đào đá quý đến buôn lậu, nhưng vẫn giữ được phẩm chất trung thực và sẵn sàng hy sinh vì đồng đội.
Chu Lai không ca ngợi chiến thắng mà tập trung vào bi kịch của những người lính chật vật trước sự thay đổi của xã hội. Họ vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, nhưng lại trở nên lạc lõng và bị tổn thương bởi những tính toán đời thường. Vòng xoáy cơm áo gạo tiền, khiến cho vẻ êm đềm của con phố cũng không thể che lấp đi những vết thương trong lòng người.
Mưa đỏ (2016)
15 năm trước, nhà văn Chu Lai viết kịch bản Mưa đỏ. Nhưng do các hãng phim không đủ kinh phí sản xuất, ông triển khai thành tiểu thuyết cùng tên.
Tác phẩm lấy bối cảnh 81 ngày đêm ác liệt tại Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Nhân vật chính là Cường, một chàng trai Hà Nội tài năng. Dù có cơ hội du học và được miễn ra trận, Cường vẫn gác lại tất cả để nhập ngũ, mang theo lý tưởng và khao khát cống hiến. Cùng với những đồng đội như Tạ, Tú, Sen, Hải, Bình, Tấn, Cường phải đối mặt với ranh giới mong manh giữa sự sống - cái chết mỗi ngày, dần làm quen với máu, súng đạn và sự tàn khốc của chiến tranh.
Ở tuyến truyện khác, tác giả xây dựng hình tượng Quang, một người lính Việt Nam Cộng hòa. Sự đối đầu giữa Cường và Quang không chỉ là cuộc chiến giữa hai phe đối lập mà còn là va chạm giữa hai thế giới quan, số phận khác nhau, cùng đối mặt với bi kịch chung của chiến tranh.
Tác phẩm ngợi ca lý tưởng sống và chiến đấu vì hòa bình, độc lập của thế hệ đi trước. Đồng thời, nhà văn mô tả những đau thương, mất mát từ cả hai bên chiến tuyến, phản ánh bản chất tàn khốc của chiến tranh và những tổn thất mà nó gây ra cho con người.
Mưa đỏ đoạt giải A Giải thưởng 5 năm Bộ Quốc phòng năm 2019, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam hồi 2016.
Khánh Linh